Năng lượng: Giá dầu đã tăng hơn 1% do rủi ro địa chính trị ở châu Âu và Trung Đông leo thang, nơi chiến tranh tiếp tục đe dọa nguồn cung toàn cầu.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giao sau tăng 1,08 USD, tương đương 1,3%, lên 85,33 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,24 USD, tương đương 1,5%, lên 81,57 USD/thùng.
Giá dầu Brent tham chiếu cho thị trường thế giới đã tăng trở lại từ mức thấp hồi đầu tháng 6 - 77,52 USD, nhưng vẫn chưa đạt mức đỉnh cao 90 USD đạt được vào giữa tháng 4.
Một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái đã xảy ra ở bể chứa nhiên liệu tại một kho dầu ở cảng Azov, miền nam nước Nga. Cảng Azov có hai kho cảng sản phẩm dầu, xử lý tổng cộng khoảng 220.000 tấn nhiên liệu để xuất khẩu trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 5.
Những cuộc tấn công vào tổ hợp lọc dầu của Nga đặt ra mối đe dọa đối với nguồn cung toàn cầu, cũng như làm tăng phí bảo hiểm rủi ro được định giá vào hợp đồng tương lai dầu thô.
John Kilduff, đối tác tại Again Capital, cho biết: “Cuộc tấn công của Ukraine nhắc nhở thị trường rằng cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga đang nằm trong tầm ngắm, thị trường toàn cầu cần những thùng dầu thô và sản phẩm tinh chế đó để kiểm soát giá”.
Giá tăng một phần cũng bởi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang New York John Williams cho biết lãi suất sẽ giảm dần nhưng không đưa ra thời gian biểu chính xác.
Sau đó, giá dầu chịu áp lực khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Boston Susan Collins cảnh báo rằng “còn quá sớm để xác định liệu lạm phát có trên con đường quay trở lại mục tiêu 2% một cách bền vững hay không”.
Thị trường cũng đang theo dõi dữ liệu dự trữ của Mỹ trong tuần này để tìm ra manh mối về triển vọng nhu cầu dầu trong mùa lái xe - mùa hè.
Các nguồn tin thị trường cho biết, trích dẫn số liệu của Viện Dầu mỏ Mỹ, tồn kho dầu thô của Mỹ bất ngờ tăng vào tuần trước trong khi tồn kho xăng giảm.
Các số liệu của API cho thấy tồn kho dầu thô tăng 2,264 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 14 tháng 6, so với dự kiến là giảm 2,2 triệu thùng. Tồn kho xăng giảm 1,077 triệu thùng và sản phẩm chưng cất tăng 538.000 thùng.
Kim loại quý: Giá vàng tăng sau khi dữ liệu cho thấy doanh số bán lẻ của Mỹ yếu hơn dự kiến củng cố hy vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang sẽ giảm lãi suất trong năm nay, khiến đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 2.329,16 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,8% lên 2.346,90 USD.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết: “Dữ liệu doanh số bán lẻ yếu hơn dự kiến đã khiến đồng đô la giảm, đồng thời, lợi suất giảm, do đó, điều đó tạo ra xu hướng tăng giá vàng ở đây”.
Cục điều tra dân số của Bộ Thương mại cho biết doanh số bán lẻ của Mỹ tăng 0,1% trong tháng 5. Các nhà kinh tế được Reuters thăm dò dự báo là tăng 0,3%.
Chủ tịch Fed New York John Williams cho biết lãi suất sẽ giảm dần theo thời gian, nhưng ông không nói rằng khi nào ngân hàng trung ương có thể bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ.
Các nhà giao dịch hiện đang định giá khoảng 67% khả năng Fed cắt giảm lãi suất vào tháng 9, theo CME FedWatch Tool.
Giá vàng đã giảm 6% so với mức cao kỷ lục 2.449,89 USD/ounce đạt được vào ngày 20 tháng 5 do vấp phải những trở ngại truyền thống như đồng đô la mạnh và lãi suất cao. Việc ngân hàng trung ương Trung Quốc tạm dừng mua vàng vào tháng 5 tiếp tục gây áp lực lên thị trường.
Tuy nhiên, một cuộc khảo sát hàng năm về các ngân hàng trung ương của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho thấy đa số họ cho biếtdự trữ vàng sẽ tăng trong vòng 12 tháng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 29,48 USD / ounce. Tuy nhiên, Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa tại WisdomTree, kỳ vọng kim loại này sẽ nhận được hỗ trợ trong những tháng tới do thâm hụt ngày càng sâu sắc trong bối cảnh việc sử dụng pin mặt trời tăng trưởng. Giá bạch kim tăng 0,7% lên 971,56 USD và palađi ổn định ở mức 889,20 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng trở lại từ mức thấp nhất 2 tháng sau khi doanh số bán lẻ của Mỹ tăng chậm lại làm gia tăng kỳ vọng Fed sẽ sớm cắt giảm lãi suất.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London kết thúc phiên tăng 0,3% lên 9.697 USD/tấn, trước đó đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 18/4, là 9.551 USD.
Doanh số bán lẻ của Mỹ hầu như không tăng trong tháng 5 và dữ liệu của tháng trước được điều chỉnh thấp hơn dữ liệu ban đầu, cho thấy hoạt động kinh tế mờ nhạt.
Tuy nhiên, xu hướng tăng giá đồng đã bị hạn chế do tồn kho cao. Tồn kho tại các kho đăng ký với sàn LME đã tăng lên mức cao nhất trong 6 tháng sau khi dữ liệu trao đổi cho thấy lượng vận chuyển đồng khổng lồ 19.175 tấn đến các địa điểm ở châu Á. Dữ liệu cho thấy hàng tồn kho tại các kho được LME phê duyệt đã tăng lên 155.850 tấn, cho thấy nhu cầu yếu.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Đồng đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất do hy vọng phục hồi sản xuất toàn cầu đang mờ nhạt dần”.
Trong khi đó, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,2% xuống 2.495,5 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất trong 9 tuần, là 2.470 USD. Một nhà giao dịch cho biết: “Chúng tôi cho rằng 2.450 USD là một điểm mua tốt. Các nguyên tắc cơ bản của nhôm thực sự tốt hơn đồng trong trung hạn”. Nhập khẩu nhôm của Trung Quốc tăng 61,1% trong tháng 5 nhờ dòng chảy từ từ Nga, quốc gia chịu lệnh trừng phạt của phương Tây.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nickel giảm 1% xuống 17.300 USD/tấn, kẽm CMZN3 giảm 1,1% xuống 2.847 USD, chì tăng 1,9% lên 2.196,5 USD và thiếc giảm 0,3% ở mức 32.230 USD.
Giá quặng sắt tăng trở lại, nhưng đã rời khỏi mức cao nhất trong phiên khi các nhà đầu tư chốt lời sau các cuộc đàm phán thị trường về việc kiểm soát sản lượng thép ở tỉnh Phúc Kiến phía nam nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã tăng hơn 0,24% lên mức 820,5 nhân dân tệ (113,08 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất trong ngày ở mức 840 nhân dân tệ/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,09% lên 106,35 USD/tấn.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép cây đi ngang, thép cuộn cán nóng tăng 0,24%, thanh thép tăng 0,36% trong khi thép không gỉ giảm 0,22%.
Thông tin cho biết chính quyền tỉnh Phúc Kiến hôm thứ Hai đã gặp gỡ các nhà sản xuất thép địa phương để thảo luận chi tiết về các hạn chế sản lượng trong năm nay, yêu cầu các doanh nghiệp quốc doanh đóng tại địa phương không vượt quá 85% công suất thép được phê duyệt trước cuộc họp.
Sản lượng thép thô tại tỉnh Phúc Kiến đã tăng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái lên khoảng 34,06 triệu tấn vào năm 2023, chiếm 3,3% tổng sản lượng của cả nước, dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương Mỹ tăng trở lại sau hai phiên giảm trước đó, khi các nhà đầu tư theo dõi một đợt nắng nóng di chuyển qua Vành đai trồng ngô ở phía đông nước Mỹ. Trong khi đó, Giá lúa mì cũng giảm xuống mức thấp nhất gần hai tháng, do vụ thu hoạch của Mỹ tăng và sản lượng đầu vụ ở Nga thuận lợi.
Kết thúc phiên này, hợp đồng lúa mì giao dịch tích cực nhất trên sàn Chicago giảm 9-1/2 cent xuống 5,82 USD/bushel; trước đó, giá đã giảm xuống còn 5,80 USD, mức yếu nhất kể từ ngày 22/4. Đậu tương kết thúc phiên tăng 12-1/4 cent lên 11,74 USD/bushel, trong khi ngô tăng 6-1/4 cent lên 4,50 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,06 cent, tương đương 0,3%, xuống 18,92 cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 0,3% xuống 546,60 USD/tấn.
Thời tiết khô hạn ở Brazil vẫn là một mối quan tâm và đe dọa ảnh hưởng tới sản lượng mía. Ngoài ra, thị trường cũng rất chú ý đến thời tiết ở Ấn Độ.
Công ty tư vấn Safras & Mercado cho biết, vụ thu hoạch cà phê niên vụ 2024/25 của Brazil đã đạt 37% diện tích dự kiến tính tới thứ Ba tuần trước, so với 33% một năm trước đó.
Trong khi đó, giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 1,6% xuống 3.994 USD/tấn; cà phê Robusta giao cùng kỳ hạn giảm 1,6% ở mức 3.994 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn của Nhật Bản kết thúc chuỗi 3 phiên giảm do đồng yên yếu đi, mặc dù giá cao su vật chất và giá dầu thô giảm trong phiên đầ tuần đã hạn chế mức tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn Osaka đóng cửa tăng 0,6 yên, tương đương 0,18%, lên 328,1 yên (2,08 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 100 nhân dân tệ và kết thúc ở mức 14.915 nhân dân tệ (2.055,63 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng giao tháng 7 tại Sở giao dịch Singapore đạt mức 169,2 US cent/kg, giảm 1,8%.
Giá tấm cao su hun khói (RSS3) của nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Thái Lan và cao su khối giảm lần lượt 2,21% và 0,48%.
Đồng nhân dân tệ nội địa của Trung Quốc giảm xuống gần mức đáy 7 tháng, một phần do dữ liệu kinh tế trái chiều hôm thứ Hai cho thấy cần có thêm sự hỗ trợ từ Bắc Kinh để củng cố nền kinh tế nước này, cũng đẩy giá cao su ở Osaka tăng lên.
Mặt khác, nhu cầu của người tiêu dùng Trung Quốc đối với phương tiện sử dụng năng lượng mới có thể sẽ duy trì mức tăng trưởng nhanh, điều này sẽ làm tăng nhu cầu về cơ sở hạ tầng sạc xe điện, nhà hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc cho biết.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,50
|
-0,07
|
-0,09%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,34
|
+0,01
|
+0,01%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
249,30
|
+0,98
|
+0,39%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,93
|
+0,02
|
+0,65%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
252,56
|
+0,48
|
+0,19%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.345,20
|
-1,70
|
-0,07%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.330,88
|
+1,42
|
+0,06%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,55
|
-0,02
|
-0,06%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
978,08
|
+1,26
|
+0,13%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
445,95
|
+0,90
|
+0,20%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.671,50
|
+6,00
|
+0,06%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.486,50
|
-15,00
|
-0,60%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.838,00
|
+22,50
|
+0,80%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
32.144,00
|
-4,00
|
-0,01%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
467,75
|
+4,75
|
+1,03%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
599,00
|
-9,00
|
-1,48%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
329,00
|
+1,00
|
+0,30%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,76
|
+0,19
|
+1,22%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.132,00
|
+1,75
|
+0,15%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
345,20
|
+0,30
|
+0,09%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
44,44
|
+0,55
|
+1,25%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
625,00
|
-1,10
|
-0,18%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
9.390,00
|
+239,00
|
+2,61%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
226,25
|
-1,05
|
-0,46%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
18,99
|
-0,07
|
-0,37%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
413,65
|
-15,55
|
-3,62%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
72,76
|
+0,99
|
+1,38%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
172,60
|
+1,30
|
+0,76%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:VITIC/Vinanet (Theo Reuters, Bloomberg)