menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 24/6: Giá hầu hết tăng

12:00 25/06/2024

Phiên thứ Hai (24/6), giá dầu, vàng, cà phê cùng tăng trong khi một số mặt hàng khác giảm, trong đó quặng sắt thấp nhất nhiều tuần. 
 
Năng lượng: Giá dầu phiên thứ Hai (24/6) tăng khoảng 1% do triển vọng nhu cầu tăng mạnh trong mùa lái xe (mùa hè) và căng thẳng tại Trung Đông cùng với các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái vào các nhà máy lọc dầu của Nga, dẫn đến lo ngại về nguồn cung.
Đồng USD giảm cũng góp phần làm tăng giá dầu.
Kết thúc phiên, giá 6 dầu Brent kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 0,77 USD hay 0,9% lên 86,01 USD/thùng. Dầu thô WTI tăng 0,9 USD hay 1,1% lên 81,63 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đều tăng khoảng 3% trong tuần trước, tuần tăng thứ hai liên tiếp.
Nhà phân tích Tamas Varga của công ty môi giới dầu PVM cho biết: “Lý do cơ bản đằng sau việc giá tăng là niềm tin ngày càng tăng rằng tồn kho dầu toàn cầu chắc chắn sẽ giảm trong mùa hè ở bán cầu bắc”.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai tại Mizuho ở New York cho biết, sau đợt tồn kho dầu thô và xăng của Mỹ giảm mạnh vào tuần trước, các nhà giao dịch đang chờ xem liệu báo cáo công bố vào thứ Tư có cung cấp thêm bằng chứng về việc nhu cầu xăng mạnh mẽ sẽ tiếp tục được duy trì hay không.
Ông Yawger cho biết: “Phải duy trì để xu hướng tích cực này tiếp tục duy trì”, đồng thời cho biết thêm rằng thị trường xe điệnphát triển đang làm xói mòn thị phần xăng dầu trên thị trường vận tải.
Nhà phân tích Jim Ritterbusch của Ritterbusch and Associates cho biết, đà tăng do xăng dẫn đầu có thể giảm dần trong những tuần tới do lạm phát ảnh hưởng đến chi tiêu du lịch mùa hè. Ông Ritterbusch cho biết: “Chúng tôi vẫn dự đoán nhu cầu sẽ giảm đáng kể trong tháng tới, đặc biệt là với giá bán lẻ tăng gần đây khiến các kế hoạch nghỉ lễ càng bị hạn chế”.
Rủi ro địa chính trị ở Trung Đông và sự gia tăng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái vào các nhà máy lọc dầu của Nga cũng hỗ trợ giá dầu.
USD giảm giá khiến các hàng hóa định giá bằng USD như dầu hấp dẫn hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác. Đồng đô la suy yếu từ mức cao nhất trong gần 8 tuần khi các nhà giao dịch cảnh giác trở lại về khả năng Nhật Bản can thiệp để hỗ trợ đồng yên sau khi đồng tiền này giảm mạnh xuống mức 160 đổi 1 đô la.
Chỉ số đô la, đo lường hiệu suất USD so với sáu loại tiền tệ chính, đã tăng vào thứ Sáu và tăng nhẹ vào thứ Hai sau khi dữ liệu cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ trong tháng 6 ở mức cao nhất trong 26 tháng.
Tại Ecuador, công ty dầu mỏ nhà nước Petroecuador đã tuyên bố bất khả kháng đối với việc giao dầu thô nặng Napo xuất khẩu sau khi đường ống và giếng dầu ngừng hoạt động do mưa lớn, các nguồn tin cho biết hôm thứ Sáu.
Kim loại quý: Giá vàng tăng bởi USD giảm trong khi nhà đầu tư mong đợi số liệu lạm phát của Mỹ công bố vào cuối tuần này để có manh mối về đường lối chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 2.332,62 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,6% lên 2.344,4 USD/ounce.
USD giảm 0,3% so với các đồng tiền đối thủ khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn cho người giữ các đồng tiền khác.
David Meger, giám đốc đầu tư và giao dịch thay thế tại High Ridge Futures, cho biết người mua tích cực mua khi giá giảm, đồng thời cho biết thêm rằng các nhà đầu tư đang tìm kiếm quỹ đạo của lãi suất trong tương lai và thời điểm Fed sẽ cắt giảm lãi suất.
Trọng tâm chú ý của tuần này sẽ là dữ liệu Chi tiêu Tiêu dùng Cá nhân (PCE) của Mỹ, thước đo lạm phát ưa thích của Fed, sẽ công bố vào thứ Sáu.
Ngoài ra, sẽ có ít nhất 5 quan chức Fed, bao gồm Chủ tịch Fed San Francisco Mary Daly và Thống đốc Fed Lisa Cook và Michelle Bowman, những người dự kiến sẽ phát biểu trong tuần này.
Các nhà đầu tư hiện nay dự kiến 66% khả năng Fed cắt giảm lãi suất trong tháng 9. Lãi suất giảm làm giảm chi phí giữ vàng.
BofA trong một báo cáo nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi tin rằng vàng có thể đạt mức 3.000 USD/oz trong 12-18 tháng tới, mặc dù dòng chảy không chứng minh được mức giá đó ngay bây giờ”. “Dòng vốn vào các quỹ ETF và khối lượng thanh toán bù trừ LBMA tăng lên sẽ là tín hiệu đáng khích lệ đầu tiên.”
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay ổn định ở mức 29,49 USD/ounce và bạch kim tăng 0,5%, lên 997,80 USD. Giá palladium tăng 3,2% lên 979,17 USD. Giá đã đạt mức cao nhất trong tháng trong phiên trước đó, vượt qua mức quan trọng 1.000 USD/ounce trong không khí giao dịch không ổn định do một số nhà đầu tư chốt vị thế bán của họ và thị trường hàng thực thắt chặt nguồn cung.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm bởi nhu cầu ở Trung Quốc yếu và lượng hàng tới các kho của sàn giao dịch kim loại London tăng, mặc dù đồng USD yếu hỗ trợ giá.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch London LME giảm 0,2% xuống 9.657 USD/tấn. Giá đã giảm 13% kể từ khi đạt cao kỷ lục trên 11.100 USD/tấn ngày 20/5 bởi dấu hiệu nhu cầu yếu ở Trung Quốc và một số nơi khác.
Tồn trữ đồng tại sàn giao dịch Thượng Hải trong tuần trước giảm nhưng vẫn ở mức 322.910 tấn so với khoảng 30.000 tấn hồi tháng 1. Trong khi đó, tồn trữ đồng trên sàn LME tăng hơn 60% lên 167.825 tấn kể từ giữa tháng 5, với hầu hết lượng hàng giao đến các kho châu Á đều đến từ Trung Quốc.
Điều đáng lo ngại nữa đối với kim loại công nghiệp là chủ nghĩa bảo hộ ngày càng gia tăng, chẳng hạn như kế hoạch của Liên minh Châu Âu áp đặt thuế đối với xe điện sản xuất tại Trung Quốc.
Marex cho biết: “Do tầm quan trọng của hàng xuất khẩu đối với nền kinh tế Trung Quốc, ngày càng có nhiều lo ngại xung quanh các rào cản thương mại và mối đe dọa mà chúng gây ra đối với những hàng xuất khẩu đó trong tương lai”.
Về những kim loại quý khác, giá niken giảm xuống còn 17.100 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 4 do tồn kho của sàn LME đã tăng hơn gấp đôi lên 90.906 tấn kể từ tháng 11. Tuy nhiên, Jim Lennon của Macquarie hiện dự đoán mức thặng dư nhỏ hơn là 117.000 tấn trong năm nay vì một số lý do, bao gồm nhu cầu tăng từ các nhà máy thép không gỉ. Giá niken ổn định ở mức 17.224 USD/tấn. Giá nhôm giảm 0,4% xuống 2.505 USD/tấn, kẽm tăng 0,1% lên 2.846 USD, chì giảm 0,6% ở mức 2.177 USD và thiếc tăng 0,2% lên 32.740 USD.
Giá quặng sắt tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai tháng bởi những dấu hiệu cho thấy tiêu thụ thép tại Trung Quốc ảm đạm và USD mạnh lên.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 3,11% xuống 795,5 CNY (109,55 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 9/4. Tại Singapore quặng sắt giao tháng 7 giảm 2,33% xuống 102,55 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 8/4.
Các nhà phân tích tại Everbright Futures cho biết nhiều khu vực đã bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao và mưa lớn, dẫn đến việc tạm dừng hoạt động tại một số công trường xây dựng, đồng thời nhu cầu thép vẫn yếu kéo giá quặng sắt giảm.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành của Navigate Commodities, cho biết: “Những nhà đầu tư quặng sắt đã cố giữ hy vọng về bất kỳ biện pháp hỗ trợ nào tiếp theo, có thể hỗ trợ lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc như là pháo đài hy vọng cuối cùng cho bất kỳ sự phục hồi tiềm năng nào trong hoạt động xây dựng”. “Thật không may, tất cả các con đường và số liệu đều dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng trong hoạt động của ngành vào năm 2024. Hơn nữa, việc thanh lý các nhà phát triển bất động sản trong nước sắp xảy ra và các đơn đặt hàng sắp kết thúc hiện đang tạo ra những trở ngại khó lường đối với việc tiêu thụ thép xây dựng trong nước.”
Các nhà phân tích cho biết, đồng đô la Mỹ tăng đã gây áp lực lên các thị trường hàng hóa nói chung, gồm quặng sắt và thép, do đồng bạc xanh mạnh hơn khiến hàng hóa được định giá bằng đồng đô la trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Cheng Peng, một nhà phân tích tại inosteel Futures trụ sở ở Bắc Kinh, cho biết: “Chúng tôi không nghĩ rằng sẽ có dư địa lớn để giá thép thanh giảm thêm vì nó đã khá gần với chi phí sản xuất dựa trên chi phí điện ở thung lũng và không có lực cản lớn nào về các nguyên tắc cơ bản”.
Tại Thượng Hải, thép thanh giảm 1,51%, thép cuộn cán nóng giảm 1,11%, dây thép cuộn giảm 2,07% và thép không gỉ không đổi.
Nông sản: Giá ngô Mỹ giảm do dự đoán diện tích trồng tăng trước khi dữ liệu diện tích trồng của Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố vào cuối tuần này. Các nhà phân tích được Reuters thăm dò dự báo 90,353 triệu mẫu ngô đã được trồng, tăng so với dự báo 90,036 triệu mẫu dự báo vào tháng 3. Giá đậu tương tăng sau một đợt giông bão tại vùng trên của Midwest cuối tuần qua gây lũ lụt cục bộ khiếm vụ mùa gặp nguy hiểm.
Trên sàn giao dịch Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 1-1/2 US cent xuống 4,33-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 14-3/4 US cent lên 11,75-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 0,44 US cent hay 2,3% lên 19,41 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 2,1% lên 570,1 USD/tấn.
Nhà sản xuất đường Tereos dự kiến sẽ lượng mía ép trong niên vụ 2024/25 ở Brazil sẽ tương tự như niên vụ trước, chấp hạn hán tại khu vực sản xuất quan trọng của nước này.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 3,6% lên 4.252 USD/tấn, hướng tới mức đỉnh 4.394 USD đã thiết lập trước đó trong tháng này. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 5% lên 2,3625 USD/lb.
Các đại lý cho biết xuất khẩu từ Việt Nam trong tháng này đang ở mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ một năm trước sau khi giảm mạnh trong tháng 5. Người trồng cà phê Việt Nam đã bị thiệt hại nặng nề bởi đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong gần một thập kỷ, làm dấy lên mối lo ngại về giá cà phê espressos trên thế giới.
Việc vận chuyển hàng xuất khẩu tại Brazil bị chậm trễ đang hạn chế cà phê robusta và gây khan hiếm nguồn cung ở các nước tiêu thụ chính.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm lúc đầu phiên nhưng tăng trở lại vào cuối phiên do đồng JPY yếu, mặc dù nhu cầu trầm lắng và giá dầu toàn cầu giảm đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,3 JPY hay 0,09% lên 327,8 JPY (2,05 USD)/kg. Cao su giao tháng 9 tại Thượng Hải giảm 95 CNY xuống 14.905 CNY (2.052,55 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn Singapore Exchange giao dịch ở mức 169,4 US cent/kg, giảm 0,10%.
Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn SICOM của Singapore Exchange giao dịch ở mức 169,4 US cent/kg, giảm 0,10%.
Đồng yên suy yếu xuống 159,94 JPY/USD, mức thấp nhất kể từ ngày 29 tháng 4, khi đồng yên chạm mức thấp nhất trong 34 năm là 160,245 khiến chính phủ Nhật Bản chi khoảng 9,8 nghìn tỷ yên để hỗ trợ đồng tiền.
Tình trạng nhu cầu yếu đang chi phối tâm lý thị trường cao su tự nhiên cả trên thị trường vật chất và thị trường kỳ hạn, Jom Jacob, nhà phân tích trưởng tại công ty phân tích Ấn Độ What Next Rubber, lưu ý rằng "không có dấu hiệu nào cho thấy các công ty Trung Quốc sắp mua hàng quy mô lớn".
Dữ liệu PMI sản xuất của nước tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc - trong tháng 6, công bố vào ngày 30 tháng 6, có thể mang lại những hiểu biết sâu sắc hơn về triển vọng nhu cầu cao su tự nhiên từ Trung Quốc trong những tháng còn lại của năm nay, Jacob cho biết.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

81,67

+0,04

+0,05%

Dầu Brent

USD/thùng

86,02

+0,01

+0,01%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

251,61

+0,46

+0,18%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,81

+0,00

+0,07%

Dầu đốt

US cent/gallon

252,58

+0,44

+0,17%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.337,20

-7,20

-0,31%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.325,92

-8,73

-0,37%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,71

-0,14

-0,47%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

1.002,03

+3,28

+0,33%

Đồng (Comex)

US cent/lb

443,20

+0,70

+0,16%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.661,00

-21,50

-0,22%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.503,00

-10,50

-0,42%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.846,00

+2,00

+0,07%

Thiếc (LME)

USD/tấn

32.746,00

+75,00

+0,23%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

450,25

-1,50

-0,33%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

572,50

+1,50

+0,26%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

313,50

0,00

0,00%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,57

+0,01

+0,06%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.127,75

-2,75

-0,24%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

346,20

-0,90

-0,26%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,73

-0,11

-0,25%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

616,90

-0,90

-0,15%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.920,00

-985,00

-11,06%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

236,25

+11,25

+5,00%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,72

+0,56

+2,92%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

422,15

-2,40

-0,57%

Bông (ICE)

US cent/lb

73,37

-0,02

-0,03%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

173,60

0,00

0,00%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)