Năng lượng: Giá dầu có tuần giảm nhẹ
Giá dầu trong phiên cuối tuần giảm hơn 2 USD/thùng xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 6/2024 do các nhà đầu tư theo dõi khả năng ngừng bắn ở dải Gaza. Đồng USD mạnh lên càng gây áp lực giảm giá.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 2,48 USD tương đương 2,9% xuống 82,63 USD/thùng; dầu WTI giảm 2,69 USD tương đương 3,3% xuống 80,13 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu giảm nhẹ khoảng 1- 2 USD/thùng.
Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken cho biết lệnh ngừng bắn giữa Israel và nhóm chiến binh Palestine Hamas được mong đợi từ lâu lúc này đang trong tầm ngắm.
"Tôi tin rằng chúng ta đang ở trong vạch 10 yard và đang tiến gần đến vạch đích để đạt được một thỏa thuận sẽ tạo ra lệnh ngừng bắn, đưa các con tin trở về nhà và đưa chúng ta vào con đường tốt hơn để cố gắng xây dựng hòa bình và ổn định lâu dài", Blinken nói, sử dụng phép so sánh với bóng đá.
Cuộc chiến ở Gaza đã khiến các nhà đầu tư xác định giá dầu khi giao dịch theo mức rủi ro, vì căng thẳng đe dọa nguồn cung toàn cầu.
Nếu lệnh ngừng bắn đạt được, phiến quân Houthi có thể nới lỏng các cuộc tấn công vào tàu thương mại ở Biển Đỏ, vì nhóm này tuyên bố các cuộc tấn công là để ủng hộ Hamas.
"Địa chính trị đang bắt đầu dịu đi một chút. Điều đó có thể có lợi cho chúng ta, sau tin tức về lệnh ngừng bắn này", Tim Snyder, nhà kinh tế trưởng tại Matador Economics cho biết.
Chỉ số đồng USD tăng sau số liệu thị trường lao động và sản xuất tại Mỹ cao hơn so với dự kiến.
Đồng tiền của Mỹ mạnh lên làm giảm nhu cầu về dầu được định giá bằng đô la từ những người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Các quan chức Trung Quốc thừa nhận danh sách các mục tiêu kinh tế toàn diện được nhấn mạnh lại vào cuối cuộc họp của Đảng Cộng sản tuần này chứa "nhiều mâu thuẫn phức tạp", cho biết con đường thực hiện chính sách sẽ gian nan.
Dữ liệu chính thức cho thấy nền kinh tế Trung Quốc trong quý 2 tăng trưởng chậm hơn dự kiến (4,7%), làm dấy lên lo ngại về nhu cầu dầu mỏ của nước này.
Tuy nhiên, có một yếu tố hỗ trợ giá. Đó là, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết số giàn khoan dầu đã giảm một xuống còn 477 trong tuần này, mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2021.
Sự cố công nghệ toàn cầu đã làm gián đoạn hoạt động của nhiều ngành công nghiệp, với các hãng hàng không dừng các chuyến bay, một số đài phát thanh ngừng phát sóng và các lĩnh vực từ ngân hàng đến chăm sóc sức khỏe bị ảnh hưởng bởi sự cố hệ thống.
Trong khi đó, hai tàu chở dầu lớn đã bốc cháy sau khi va chạm gần Singapore.
Singapore là trung tâm giao dịch dầu mỏ lớn nhất châu Á và là cảng tiếp nhiên liệu lớn nhất thế giới. Vùng biển xung quanh là tuyến đường thủy thương mại quan trọng giữa châu Á và châu Âu cũng như Trung Đông và là một trong những tuyến đường biển đông đúc nhất toàn cầu.
Kim loại quý: Giá vàng trong tuần tăng mạnh
Giá vàng giảm hơn 2% trong phiên cuối tuần do đồng USD tăng và hoạt động bán chốt lời sau khi đạt mức cao kỷ lục vào đầu tuần này, được thúc đẩy bởi kỳ vọng ngày càng tăng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 1,9% xuống 2.399,27 USD/ounce. Vàng giao sau giảm 2,3% xuống 2.399,1 USD/ounce. Đồng USD tăng trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng, gây áp lực lên vàng thỏi.
Trong phiên 17/7/2024, giá vàng giao ngay có lúc đạt kỷ lục cao 2.483,6 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng tăng mạnh, tăng hơn 100 USD mỗi ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 3,2% trong phiên thứ Sáu, xuống 29,11 USD/ounce, bạch kim giảm 0,3% xuống 964,75 USD/ounce và palađi giảm 2,7% xuống 905,09 USD/ounce. Tính chung cả tuần, cả 3 kim loại đều giảm.
"Bên cạnh lý do nhiều người bán chốt lời, giá giảm còn vì câu chuyện nền kinh tế Mỹ hạ cánh mềm này; điều này có thể gây áp lực lên giá vàng, vì các nhà đầu tư sẽ chuyển tiền từ khoản đầu tư an toàn sang khoản đầu tư rủi ro hơn", Alex Ebkarian, giám đốc điều hành tại Allegiance Gold cho biết.
Theo Công cụ FedWatch của CME, thị trường hiện đang dự đoán khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 9 là 98%. Sức hấp dẫn của vàng thỏi có xu hướng tỏa sáng trong môi trường lãi suất thấp.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell vào đầu tuần này cho biết các số liệu lạm phát gần đây "làm tăng thêm phần tự tin" rằng tốc độ tăng giá đang chậm lại một cách bền vững, về gần mục tiêu của ngân hàng trung ương.
"Nếu các ETF thêm vàng khi lãi suất giảm, thì vàng sẽ tăng đáng kể", Chris Mancini, giám đốc danh mục đầu tư liên kết của Gabelli Gold Fund cho biết. "Nếu nền kinh tế yếu hơn khiến các chính phủ kích thích, đặc biệt là đối với cơ sở hạ tầng, thì cả vàng và kim loại công nghiệp sẽ tăng cùng lúc".
Về thị trường vàng vật chất, nhu cầu vàng của châu Á trong tuần này chậm chạp, phản ánh sự miễn cưỡng của khách hàng trong việc mua vàng mới mặc dù đã giảm giá sâu.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và quặng sắt giảm mạnh trong tuần
Giá đồng giảm liên tục trong cả 5 phiên xuống mức thấp nhất 3 tháng do nền kinh tế Trung Quốc yếu đi trong khi vẫn chưa có thông tin về việc Chính phủ nước này đưa ra các chương trình kích kích mới.
Phiên thứ Sáu, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) giảm 0,9% xuống 9.305 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 8/4/2024. Đồng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 2,1% xuống 76.580 CNY (10.537,32 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 11/4/2024.
Tính chung cả tuần, giá giảm 5,8% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 8/2022.
Các kim loại cơ bản khác cũng giảm xuống mức thấp nhất nhiều tháng trong phiên thứ Sáu. Trong đó, giá nhôm giảm 1,2% xuống 2.357 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 2/4/2024.
Giá nickel giảm 1,1% xuống 16.250 USD/tấn - thấp nhất gần 5 tháng.
Giá nhôm và nickel đều đang chịu áp lực giảm bởi sản lượng tại các nước sản xuất hàng đầu thế giới - Indonesia và Trung Quốc - đều tăng.
Giá kẽm trên sàn LME giảm 1,3% xuống 2.772,50 USD, chì giảm 1,6% xuống 2.122 USD và thiếc giảm 2% xuống 30.980 USD, với chì và thiếc chạm mức giá thấp nhất trong ba tháng.
Cuộc họp của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong tuần này không đưa ra bất cứ thông tin chi tiết nào về các biện pháp kích thích mới, mặc dù dữ liệu tăng trưởng kinh tế trong quý 2 yếu hơn dự kiến.
"Tôi nghĩ giá ở Trung Quốc đang thực sự giảm vào thời điểm này và những nhà đầu cơ đang rút ra một ít tiền ra", Tom Price, giám đốc chiến lược hàng hóa tại Panmure Liberum cho biết. Price dự kiến giá đồng sẽ tiếp tục giảm và dự báo sẽ trung bình là 9.000 đô la một tấn trong quý IV.
Giá đồng kỳ hạn tháng 8 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) kết thúc phiên giảm 2,1% xuống còn 76.580 nhân dân tệ (10.537,32 đô la) một tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 11 tháng 4.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần cũng giảm do thiếu biện pháp kích thích cụ thể từ Trung Quốc và nhu cầu thép suy yếu do yếu tố mùa vụ.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 0,19% xuống 804,5 CNY (110,72 USD)/tấn; trong phiên có lúc chạm 792,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 26/6/2024. Quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 0,99% xuống 104,45 USD/tấn; tính chung cả tuần, giá giảm 2,33% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 7/6/2024.
Trên sàn Thượng Hải, hầu hết các sản phẩm thép đều tăng nhẹ trong phiên cuối tuần: thép cây, thép cuộn cán nóng và thép không gỉ đều tăng khoảng 0,1% mỗi loại, trong khi thép thanh giảm 0,25%.
Lượng quặng sắt tồn trữ tại cảng Trung Quốc cao tăng vẫn là lực cản, với tổng lượng hàng tồn kho tại 45 cảng lớn của Trung Quốc đạt mức cao mới kể từ giữa tháng 4 năm 2022, tăng 0,9% so với tuần trước lên 151,3 triệu tấn tính đến ngày 18 tháng 7, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá đường, cà phê, cacao đều giảm trong tuần
Giá lúa mì Mỹ tăng do hoạt động mua bù thiếu và lo ngại thời tiết bất lợi tại các khu vực trồng trọt của Mỹ cũng như trên toàn cầu. Trong khi đó, giá ngô và đậu tương giảm do thời tiết thuận ở vùng Trung Tây nước Mỹ thuận lợi, đem lại kỳ vọng về một vụ mùa bội thu. Nhưng giá cả 2 loại đều chỉ cao hơn chút ít so với mức thấp nhất trong vòng 4 năm.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 7-1/2 US cent lên 5,42-3/4 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 1/4 US cent xuống 4,04-3/4 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 7 US cent xuống 10,36 USD/bushel.
Giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 6/2024 trong bối cảnh triển vọng cây trồng tại châu Á được cải thiện.
Kết thúc phiên thứ Sáu, đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,28 US cent, tương đương 1,5%, xuống 18,66 US cent/lb, sau khi có lúc giảm xuống mức thấp nhất (18,55 US cent/lb) kể từ ngày 3/6/2024; tính chung cả tuần, giá giảm 2,8%, sau khi giảm 4,6% trong tuần trước đó. Đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 0,8% xuống 541,2 USD/tấn.
Một số nhà phân tích đã nâng dự báo về sản lượng toàn cầu trong tuần này, kỳ vọng sản lượng của Ấn Độ và Thái Lan sẽ tăng lên. Nhưng nhu cầu vẫn vững chắc khi Brazil, nước xuất khẩu hàng đầu thế giới, tăng 50% lượng đường xuất khẩu trong quý I.
Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 2,7 US cent tương đương 1,1% xuống 2,382 USD/lb, giảm từ mức cao kỷ lục 2,5 năm (2,553 USD/lb) trong tuần trước đó; tính chung cả tuần, giá giảm 4,2%. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 1,1% lên 4.530 USD/tấn, trong tuần trước đó giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn.
Các đại lý cho biết việc giá giảm không phải là điều bất ngờ bởi giá gần đây đã tăng. Mặc dù giảm trong phiên này, nhưng thị trường vẫn được hỗ trợ bởi vụ mùa ở Brazil cho sản lượng ít hơn dự kiến.
Theo công ty tư vấn Safras & Mercado, sản lượng cà phê tại Brazil, nước sản xuất mặt hàng này lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ giảm 4 triệu bao so với dự kiến ban đầu do cây trồng phát triển kém trong điều kiện thời tiết khô hạn.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng trong trong phiên cuối tuần do đồng JPY suy yếu, nhưng tính chung cả tuần giá giảm mạnh nhất 1 tháng do thiếu thông tin về các chương trình kích thích kinh tế mới từ nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc.
Kết thúc phiên, cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,8 JPY, tương đương 0,57%, lên 319,0 JPY (2,02 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 1,82% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 17/6/2024.
Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY, tương đương 0,55%, lên 14.595 CNY (2.008,67 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá , giảm 0,85% - tuần giảm thứ 6 liên tiếp.
Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 162,7 US cent/kg.
Diễn biến giá hàng hóa:
|
ĐVT
|
12/7
|
19/7
|
19/7 so với 18/7
|
19/7 so với 18/7 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,91
|
80,47
|
+0,34
|
+0,42%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,35
|
82,93
|
+0,30
|
+0,36%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
252,75
|
245,68
|
+0,64
|
+0,26%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,57
|
2,16
|
+0,03
|
+1,64%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
255,34
|
242,56
|
+0,65
|
+0,27%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.335,60
|
2.450,40
|
+3,60
|
+0,15%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.326,50
|
2.401,30
|
+0,47
|
+0,02%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,38
|
29,17
|
-0,13
|
-0,46%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
994,46
|
961,09
|
-4,86
|
-0,50%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
437,20
|
420,75
|
-2,90
|
-0,68%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.599,00
|
9.310,00
|
-76,00
|
-0,81%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.524,50
|
2.351,50
|
-33,50
|
-1,40%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.937,50
|
2.776,50
|
-32,50
|
-1,16%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
32.739,00
|
31.050,00
|
-554,00
|
-1,75%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
421,25
|
409,75
|
+5,00
|
+1,24%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
576,25
|
546,75
|
+4,00
|
+0,74%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
325,50
|
328,50
|
+2,50
|
+0,77%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,47
|
14,39
|
+0,15
|
+1,05%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.104,25
|
1.052,75
|
+16,75
|
+1,62%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
333,90
|
312,80
|
+5,30
|
+1,72%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
44,28
|
44,41
|
+0,44
|
+1,00%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
627,10
|
656,80
|
+10,60
|
+1,64%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.731,00
|
7.689,00
|
-379,00
|
-4,70%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
226,80
|
238,20
|
-2,70
|
-1,12%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
20,30
|
18,66
|
-0,28
|
-1,48%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
413,20
|
433,20
|
+0,85
|
+0,20%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
72,73
|
71,02
|
+0,32
|
+0,45%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
167,70
|
166,00
|
-0,20
|
-0,12%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)