menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa thế giới phiên 18/9: Giá có xu hướng giảm

11:00 19/09/2024

Phiên thứ Tư (18/9), giá dầu, vàng, cà phê, quặng sắt… đồng loạt giảm. Chỉ một số ít mặt hàng tăng giá, trong đó có cao su.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm sau khi có thông báo cắt giảm lãi suất từ Cục Dự trữ Liên bang làm dấy lên lo ngại về sức khỏe của nền kinh tế Mỹ mặc dù bên cạnh đó còn có thông tin dự trữ dầu thô Mỹ giảm, được cho là do tác động của thời tiết trong ngắn hạn.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent kỳ hạn tháng 11 giảm 5 US cent xuống 73,65 USD/thùng, trong khi giá dầu thô WTI kỳ hạn tháng 10 giảm 28 US cent xuống 70,91 USD/thùng.
Trong phiên, giá dầu có lúc tăng do bạo lực ở Trung Đông có nguy cơ gia tăng, làm gián đoạn nguồn cung, sau khi Hezbollah cáo buộc Israel tấn công nhóm phiến quân này bằng máy nhắn tin chứa đầy thuốc nổ ở Lebanon.
Ngân hàng trung ương Mỹ đã cắt giảm lãi suất một nửa điểm phần trăm, mức giảm lớn hơn nhiều so với dự kiến của nhiều người, làm dấy lên lo ngại về tình trạng “sức khỏe” của nền kinh tế Mỹ. Việc cắt giảm lãi suất thường thúc đẩy hoạt động kinh tế và nhu cầu năng lượng, nhưng thị trường lao động yếu hơn có thể làm chậm nền kinh tế.
Trong khi đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết lượng dầu thô tồn kho ở Mỹ đã giảm 1,6 triệu thùng xuống còn 417,5 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 13 tháng 9, so với kỳ vọng của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters là giảm 500.000 thùng.
Sản lượng dầu thô giảm sút dẫn đến lượng hàng tồn kho giảm xuống mức thấp nhất trong một năm đã giúp hạn chế đà giảm giá.
Giá dầu Brent đã phục hồi kể từ ngày 10 tháng 9 - khi giảm xuống dưới 70 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2021.
Kim loại quý: Giá vàng đã giảm từ mức cao nhất mọi thời đại khi đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng sau bình luận của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell, sau động thái ngân hàng trung ương Mỹ đưa ra mức cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản (bps).
Vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 0,7% xuống còn 2.552,49 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục là 2.599,92 USD sau quyết định về lãi suất của Fed. Hợp đồng vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 0,2% lên 2.598,60 USD.
Giá bạc giao ngay trong phiên này giảm 2,5% xuống 29,96 USD một ounce; bạch kim giảm 1,1% xuống 970,10 USD, trong khi palladium giảm 5,4% xuống còn 1.056,28 USD.
"Vàng đang giảm nhanh chóng khi đồng USD tăng giá sau khi ông Powell kiên định giữ thái độ trung lập - Fed sẽ phụ thuộc vào dữ liệu và thị trường không nên cho rằng lãi suất sắp tới sẽ giảm 50 điểm cơ bản ", Tai Wong, nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York cho biết.
"Vàng đang có xu hwóng tăng giá và mỗi khi giá giảm thì các nhà giao dịch sẽ mua vào", ông nói thêm.
Ngân hàng trung ương Mỹ đã bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ với mức cắt giảm nửa điểm phần trăm, đúng như thị trường kỳ vọng. Các nhà phân tích dự đoán lãi suất của Mỹ sẽ giảm thêm nửa điểm phần trăm vào cuối năm nay.
Trong khi đó, ông Powell cho biết ngay cả khi áp lực lạm phát đã giảm rõ ràng, ông vẫn chưa sẵn sàng khẳng định áp lực giá đã thực sự hạ nhiệt.
Đồng USD tăng trở lại sau khi chạm mức thấp nhất trong hơn một năm, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác. Lợi suất chuẩn kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng lên mức cao nhất trong một tuần.
"Chúng tôi tin rằng dự báo của Fed về việc cắt giảm lãi suất thêm nữa sẽ hỗ trợ nhu cầu đầu tư, ví dụ như với dòng tiền đổ vào các quỹ ETF vàng, trong khi nhu cầu vàng từ ngân hàng trung ương có khả năng vẫn mạnh", nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng nhẹ trong phiên vừa qua, với hợp đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 9.417 USD/tấn, sau khi giảm trong phiên liền trước. Giá đồng trên sàn Comex của Mỹ tăng 0,3% lên 4,24 USD/lb.
Giá đồng trên sàn LME đã phục hồi 6% kể từ khi chạm mức thấp nhất 3 tuần vào ngày 4 tháng 9, nhưng vẫn giảm 15% kể từ khi đạt mức cao kỷ lục vào tháng 5.
"Thị trường tìm kiếm thêm sự hỗ trợ từ thông báo cắt giảm lãi suất đó và cũng đang tập trung vào Trung Quốc, với kỳ vọng Chính phủ sẽ hành động nhiều hơn để ngăn chặn xu hướng giảm giá mà chúng ta đang thấy", Ole Hansen, người phụ trách chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen cho biết.
Tuần trước, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc giục các nhà chức trách nỗ lực đạt được các mục tiêu kinh tế, làm dấy lên kỳ vọng Trung Quốc sẽ đưa ra các biện pháp kích thích để thúc đẩy sự phục hồi cho nền kinh tế đang trì trệ.
Hiện giá đồng trên sàn LME đang dao động ở mức dưới 9.500 USD, một mức mà nếu bị phá vỡ thì sẽ tiến đến mức 10.000 USD, ông Hansen nói thêm. "Việc không có hiện tượng chốt lời cho thấy các nhà giao dịch có niềm tin rằng những gì xảy ra tiếp theo sẽ hỗ trợ thêm cho thị trường", ông nói. Một nhà giao dịch cho biết hầu hết hoạt động mua là của các quỹ do máy tính điều khiển.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm trên sàn LME có hiệu suất kém nhất, giảm 1,2% xuống còn 2.891 USD/tấn sau khi có thêm dòng hàng tồn kho đổ vào các kho đã đăng ký với sàn LME, tăng 10% trong hai ngày lên 251.850 tấn. Giá nhôm trên sàn LME tăng nhẹ 0,4% lên 2.533 USD/tấn, niken tăng 0,3% lên 16.240 USD, chì tăng 0,9% lên 2.036 USD trong khi thiếc giảm 0,9% xuống 31.555 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai trải qua phiên giảm mạnh nhất gần hai năm do triển vọng nguồn cung toàn cầu cao và nhu cầu thép Trung Quốc suy yếu.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 4,12% xuống 675,0 nhân dân tệ (95,13 USD)/tấn, là phiên giảm mạnh nhất kể từ ngày 31 tháng 10 năm 2022. Thị trường Trung Quốc đóng cửa vào thứ Hai và thứ Ba để nghỉ lễ.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 10 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,85% xuống còn 90,50 USD/tấn.
Hôm thứ Hai, Goldman Sachs đã cắt giảm dự báo giá quặng sắt trong quý IV năm 2024, với lý do cung vượt cầu, mặc dù nhu cầu từ Trung Quốc đang ổn định.
"Chúng tôi lưu ý giá có khả năng được hỗ trợ từ việc bổ sung hàng tồn kho trước Tuần lễ Vàng trong hai tuần tới, nhưng việc tiếp tục tăng tổng lượng quặng sắt dự trữ đang tạo bối cảnh cho một đợt giảm giá khác vào tháng 10", các nhà phân tích của Goldman Sachs cho biết, đề cập đến kỳ nghỉ lễ kéo dài một tuần hàng năm của Trung Quốc vào tháng tới.
Công ty tư vấn Mysteel của Trung Quốc cho biết khối lượng quặng sắt vận chuyển từ 19 cảng và 16 công ty khai thác tại Úc và Brazil đến các địa điểm trên toàn cầu trong giai đoạn từ ngày 9 đến ngày 15 tháng 9 đã tăng 12,3% so với tuần trước và đạt mức cao nhất trong hơn hai tháng, là 29 triệu tấn.
Trong khi đó, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 8 đã giảm tháng thứ ba liên tiếp khi các nhà sản xuất thép phải vật lộn với thua lỗ do giá thép giảm, dữ liệu vào thứ Bảy cho thấy.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết giá bất động sản tiếp tục giảm khi doanh số bán đất vẫn ở mức thấp nhất trong nhiều năm (theo mùa vụ), khiến nhu cầu thép không có nhiều dư địa để phục hồi.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ tăng do lượng mua mạnh bởi lo ngại về thời tiết nóng, khô ở Brazil, nước sản xuất hàng đầu thế giới, có thể đe dọa đến việc gieo hạt đậu tương. Giá ngô giảm nhẹ do các nhà giao dịch vẫn chưa muốn có động thái lớn trong giai đoạn đầu của vụ thu hoạch ngô tại Mỹ. Giá lúa mì biến động do các nhà giao dịch cân nhắc giữa sản lượng lúa mì giảm ở Liên minh châu Âu với lượng xuất khẩu mạnh mẽ từ Biển Đen.
Kết thúc phiên, hợp đồng lúa mì giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) không đổi ở mức 5,75-3/4 USD/bushel. Hợp đồng ngô tăng 1/4 US cent lên 4,12-3/4 USD/bushel, và đậu tương tăng 8 US cent lên 10,14 USD/bushel.
Hãng phân tích từ Maxar cho biết mùa mưa đến chậm ở Brazil đã dẫn đến tình trạng độ ẩm cạn kiệt ở nhiều vùng của đất nước, bao gồm cả Mato Grosso, một trong những tiểu bang trồng đậu tương hàng đầu của Brazil. Tuy nhiên, cơ quan thống kê Brazil Conab vẫn dự báo vụ mùa đậu tương 2024/25 của nước này đạt 166,28 triệu tấn, tăng 12,8% so với vụ trước.
Giá đường thô ổn định ở mức cao nhất trong năm tháng do thời tiết khô hạn ở Brazil đã hạn chế triển vọng vụ mía năm tới. Đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 5,9% lên 21,16 cent/lb, mức cao nhất kể từ đầu tháng 4. Trong khi đó, đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 3,7% lên 555,50 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất trong hai tháng là 561 USD.
Các đại lý cho biết những nhà đầu cơ đang thu hẹp vị thế bán ròng đường thô vì dự kiến nguồn cung sẽ thắt chặt trong quý cuối cùng của năm nay sau khi vụ thu hoạch mía ở Trung Nam Brazil kết thúc.
Giá cà phê arabica giảm trở lại từ mức cao nhất trong 13 năm đạt được vào đầu tuần này. Theo đó, hợp đồng arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 0,7% xuống 2,644 USD/lb sau khi chạm mức cao nhất kể từ năm 2011 là 2,7180 USD vào thứ Hai. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 0,6% lên 5.334 USD/tấn.
Thời tiết nóng và khô ở Brazil vẫn là yếu tố hỗ trợ chính, làm giảm triển vọng cho vụ mùa năm sau.
"Tiềm năng của vụ mùa arabica Brazil 2025/26 đang bị đe dọa. Lượng mưa ở các khu vực trồng cà phê arabica liên tục ở mức dưới mức bình thường kể từ khi bắt đầu mùa khô vào tháng 4", Rabobank cho biết. Ngân hàng này dự báo thị trường cà phê toàn cầu sẽ chuyển từ cân bằng sang dư thừa một chút vào năm 2024/25 nhưng sự chậm trễ trong vận chuyển, tình trạng khan hiếm container và tác động của các quy định về phá rừng sắp xảy ra của EU sẽ khiến giá ổn định ở mức cao trong suốt thời gian còn lại của năm 2024.
Giá cao su trên thị trường Thượng Hải ghi nhận mức tăng hàng ngày nhiều nhất trong hơn ba tháng vào thứ Tư, khi thị trường trở lại giao dịch sau kỳ nghỉ lễ kéo dài. Trong khi đó, giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng nhẹ, mặc dù mức tăng bị hạn chế bởi đồng yên mạnh lên.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) kết thúc phiên tăng 665 nhân dân tệ, hay 3,9%, lên 17.715 nhân dân tệ (2.496,41 USD)/tấn, ghi nhận mức tăng trong ngày lớn nhất kể từ ngày 7 tháng 6. Hợp đồng cao su giao tháng 2 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 0,4 yên, hay 0,11%, lên 374,9 yên (2,65 USD)/kg. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 10 trên sàn giao dịch SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 192,2 US cent/kg, giảm 0,5% so với phiên trước.
Hợp đồng cao su butadien kỳ hạn tháng 11 trên Sàn giao dịch SHFE tăng 450 nhân dân tệ, hay 2,92%, lên 15.870 nhân dân tệ (2.236,41 USD)/tấn.
Thị trường cao su chứng kiến giá tăng mạnh do mưa lớn ảnh hưởng đến Thái Lan, trên cả khu vực phía bắc và phía nam, Farah Miller, CEO của công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su Helixtap Technologies cho biết. Tuy nhiên, theo ông thì có thể có một số hoạt động chốt lời vào cuối tuần nếu các nhà đầu tư cảm thấy yếu tố thời tiết đã được định giá.
Cập nhật giá hàng hóa:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

70,49

-0,42

-0,59%

Dầu Brent

USD/thùng

73,30

-0,35

-0,48%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

201,02

-0,05

-0,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,29

+0,01

+0,39%

Dầu đốt

US cent/gallon

214,29

-0,46

-0,21%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.584,70

-13,90

-0,53%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.560,96

+2,05

+0,08%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,63

-0,06

-0,20%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

972,41

-1,04

-0,11%

Đồng (Comex)

US cent/lb

426,80

-3,10

-0,72%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.400,50

+30,50

+0,33%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.536,50

+12,50

+0,50%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.886,00

-40,00

-1,37%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.594,00

-261,00

-0,82%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

410,50

-2,25

-0,55%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

571,75

-4,00

-0,69%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

360,00

+4,75

+1,34%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,41

-0,05

-0,36%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.008,25

-5,75

-0,57%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

320,40

-1,00

-0,31%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

40,13

-0,18

-0,45%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

581,80

-1,30

-0,22%

Cacao (ICE)

USD/tấn

7.814,00

+194,00

+2,55%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

264,40

-0,10

-0,04%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

21,55

+1,18

+5,79%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

496,15

+10,45

+2,15%

Bông (ICE)

US cent/lb

71,16

-0,11

-0,15%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

197,20

+2,40

+1,23%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)