Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng nhẹ do dự báo mức tiêu thụ xăng dầu toàn cầu trong năm tới đạt kỷ lục cao và đồng USD chạm mức thấp nhất 7 tháng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent, tăng 45 US cent, tương đương 0,6% lên 80,1 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 49 US cent, tương đương 0,6%, lên 75,12 USD/thùng.
Trong phiên liền trước, cả hai loại dầu đều tăng 1%, sau khi Trung Quốc – nước nhập khẩu dầu lớn nhất và tiêu thụ lớn thứ 2 thế giới – mở cửa biên giới, lần đầu tiên sau 3 năm vào cuối tuần qua. Đồng thời, Trung Quốc cũng ban hành hạn ngạch nhập khẩu dầu thô thứ 2 cho năm 2023, nâng tổng hạn ngạch trong năm nay tăng 20% so với năm ngoái.
Trong báo cáo Triển vọng Năng lượng Ngắn hạn, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết tiêu thụ nhiên liệu lỏng toàn cầu dự kiến sẽ đạt 102,2 triệu thùng/ngày trong năm 2024, nhờ tốc độ tăng trưởng tiêu thụ tại các quốc gia như Ấn Độ và Trung Quốc.
Thị trường đang chờ đợi thông tin rõ ràng hơn về kế hoạch tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell tránh bình luận về chính sách tiền tệ và nền kinh tế tại hội nghị ngân hàng trung ương ở Thụy Điển. Các nhà giao dịch cũng ngóng đợi số liệu về giá tiêu dùng tại Mỹ, dự kiến công bố ngày 12/1, để đánh giá các tín hiệu về triển vọng ngắn hạn.
Chuyên gia Tamas Varga, của công ty môi giới PVM cho biết số liệu lạm phát có thể dễ dàng làm rõ hướng đi của thị trường tài chính và dầu mỏ trong nhiều tuần tới. Theo chuyên gia này, đồng USD sẽ giảm nếu lạm phát thấp hơn kỳ vọng hoặc thấp hơn mức tháng 11/2022.
Đồng bạc xanh yếu hơn có thể thúc đẩy nhu cầu dầu mỏ, vì hàng hóa định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Trong phiên 9/1, cả hai loại dầu chủ chốt đều tăng 1% sau khi Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu lớn nhất và là quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới, mở cửa biên giới lần đầu tiên sau ba năm.
Trung Quốc cũng nâng tổng hạn ngạch nhập khẩu dầu trong năm nay thêm 20% so với năm ngoái.
Dennis Kissler, quan chức cấp cao phụ trách giao dịch của tổ chức tài chính BOK Financial cho rằng giá dầu phục hồi, khi Trung Quốc dỡ bỏ hầu hết các hạn chế đối với du lịch và thương mại quốc tế.
Nhưng các nhà phân tích lưu ý nhu cầu của Trung Quốc phục hồi có thể chỉ hỗ trợ giá dầu một cách hạn chế giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu chịu sức ép suy giảm.
Ngân hàng Barclays nhận định giá dầu Brent có thể giảm 15-25 USD/thùng so với dự báo 98 USD/thùng cho năm 2023 nếu sự sụt giảm trong hoạt động sản xuất toàn cầu trở nên tồi tệ hơn giai đoạn năm 2009.
Dự trữ dầu thô và các sản phẩm chưng cất của Mỹ tuần trước ước tính giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất gần 8 tháng do đồng USD suy yếu và kỳ vọng Mỹ tăng lãi suất chậm lại sau khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell không đưa ra lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.875,01 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 9/5/2022 trong phiên trước đó. Giá vàng kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn New York giảm 0,1% xuống 1.876,5 USD/ounce.
Tại hội nghị ngân hàng trung ương ở Thụy Điển, trong khi Powell không bình luận về chính sách tiền tệ của Fed, Thống đốc Fed Michelle Bowman cho biết ngân hàng trung ương Mỹ sẽ tăng lãi suất hơn nữa để chống lại lạm phát tăng cao và điều đó có thể dẫn đến điều kiện thị trường việc làm yếu hơn.
Edward Moya, nhà phân tích cao cấp của công ty môi giới OANDA, nhận định vàng đã có một đợt tăng giá khi đồng USD suy yếu và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ rút lại quan điểm tăng mạnh lãi suất. Tuy nhiên, vàng sẽ khó tăng mạnh mẽ trước khi có báo cáo lạm phát.
Bên cạnh đó, cũng cần chờ xem lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ có tiếp tục giảm hay không, nhân tố có lợi cho giá kim loại quý.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 23,56 USD/ounce, bạch kim giảm 0,2% xuống 1.076,91 USD trong khi palladium ổn định ở mức 1.775,49 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất 6,5 tháng, khi Trung Quốc mở cửa trở lại cùng với các biện pháp kích thích mới sẽ thúc đẩy nhu cầu kim loại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,8% lên 8.926 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 22/6/2022 và tăng phiên thứ 4 liên tiếp.
Ole Hansen, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa thuộc Saxo Bank, cho biết: “Đây có thể là một năm rất tốt đối với kim loại - việc mở cửa trở lại của Trung Quốc có khả năng diễn ra nhanh hơn người ta tưởng tượng”.
Hansen cho biết vào đầu phiên, các nhà đầu tư giá lên đã chốt lãi khi thị trường cố gắng vượt qua ngưỡng kháng cự quan trọng ở mức 8.900 USD, nhưng vào buổi chiều, rào cản đó đã bị phá vỡ, tạo ra nhiều mức tăng hơn nữa.
Sự phục hồi của đồng và các kim loại cơ bản khác đã được thúc đẩy bởi việc Trung Quốc mở cửa lại biên giới sau nhiều năm hạn chế liên quan đến COVID.
Thị trường cũng được thúc đẩy sau khi khoản vay mới của ngân hàng ở Trung Quốc vào tháng trước tăng bất ngờ so với tháng 11 khi ngân hàng trung ương tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi COVID.
Iris Pang, nhà kinh tế trưởng về Trung Quốc củai Ngân hàng ING, cho biết dữ liệu cho vay tháng 12 được công bố hôm thứ Ba cho thấy nền kinh tế sẽ tăng trưởng hơn nữa vào năm 2023.
"Tăng trưởng cho vay có thể mạnh vào năm 2023 nếu chính phủ nới lỏng các chỉ số đòn bẩy tài chính 'ba lằn ranh đỏ' đối với các nhà phát triển bất động sản.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm tăng 1,1% lên 2.464 USD/tấn, niken tăng 0,2% lên 27.500 USD, thiếc tăng 0,2% lên 25.910 USD, nhưng kẽm giảm 1,1% xuống 3.172 USD và chì CMPB3 giảm 2,7% xuống 2.190 USD.
Giá quặng sắt tại Đại Liên và Singapore đều tăng, khi Trung Quốc chứng kiến mức đỉnh điểm nhiễm Covid-19 tại nhiều khu vực, làm gia tăng lạc quan về việc nới lỏng các hạn chế tại nước sản xuất thép lớn nhất thế giới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1,2% lên 839,5 CNY (123,83 USD)/tấn – gần mức cao trong phiên (844 CNY/tấn). Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore tăng 2,5% lên 119,95 USD/tấn, trước đó trong phiên đạt 120,55 USD/tấn – cao nhất kể từ đầu tháng 6/2022. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây và thép cuộn đều tăng 0,6%, thép không gỉ tăng 0,8%, trong khi thép cuộn cán nóng không thay đổi.
Trên thị trường nông sản, giá ngô trên sàn Chicago hồi phục từ mức thấp nhất 3 tuần do nhu cầu xuất khẩu của Mỹ tăng làm lu mờ lo ngại vụ thu hoạch tại Argentina suy giảm bởi hạn hán.
Trong khi giá đậu tương giảm và giá lúa mì chạm mức thấp nhất 15 tháng, do nguồn cung toàn cầu dồi dào và nhu cầu đối với hàng hóa của Mỹ suy yếu.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 2-1/4 US cent lên 6,55 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tháng (6,48-1/4 USD/bushel) trong đầu phiên giao dịch; đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 3-1/2 US cent xuống 14,85 USD/bushel; lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 10-1/2 US cent xuống 7,31 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021 (7,2-1/2 USD/bushel) trong đầu phiên giao dịch.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,47 US cent tương đương 2,5% lên 19,64 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tháng (18,92 US cent/lb) trong phiên trước đó; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London tăng 10,6 USD tương đương 2% lên 546,1 USD/tấn.
Các đại lý cho biết lượng thanh lý dài hạn của quỹ gần đây đã cạn kiệt và đường có vẻ sẽ duy trì quanh mức hiện tại với điều kiện các tín hiệu kinh tế vĩ mô tiêu cực không xấu đi. Trong bối cảnh đó, quyết định của Brazil không khôi phục thuế liên bang đối với xăng dầu tiếp tục gây áp lực, vì nó có thể khuyến khích sử dụng nhiều mía hơn để sản xuất đường thay vì ethanol.
Triển vọng sản xuất tốt ở các nước lớn như Brazil, Ấn Độ và Thái Lan hạn chế đà tăng giá.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm 7,15 US cent tương đương 4,5% xuống 1,509 USD/lb, trong phiên có lúc chạm 1,491 USD/lb – lần đầu tiên ở mức dưới 1,5 USD/lb kể từ đầu tháng 7/2021; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London giảm 2 USD tương đương 1,1% xuống 1.840 USD/tấn.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 2022 tăng 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thời tiết thuận lợi tại nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Brazil, nơi có mưa liên tục trên vành đai cà phê chính Nam Minas Gerais, và dự trữ trên sàn giao dịch tăng đang gây áp lực lên arabica.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm do giá dầu thô suy yếu, song mức giảm được hạn chế bởi thị trường cao su tại Thượng Hải tăng, khi Trung Quốc qua đỉnh dịch Covid-19 đã thúc đẩy nhu cầu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Osaka giảm 0,2 JPY tương đương 0,1% xuống 220,6 JPY (1,67 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 45 CNY xuống 12.920 CNY (1.907 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore tăng 0,4% lên 134,6 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
74,69
|
+0,06
|
+0,08%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
79,59
|
-0,06
|
-0,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
60.410,00
|
-260,00
|
-0,43%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,85
|
-0,06
|
-1,43%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
229,88
|
+0,59
|
+0,26%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
302,90
|
-0,70
|
-0,23%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
882,25
|
+1,75
|
+0,20%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.878,10
|
+0,30
|
+0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.905,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,82
|
-0,05
|
-0,21%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
98,60
|
-0,40
|
-0,40%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.087,41
|
+6,18
|
+0,57%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.784,89
|
+5,07
|
+0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
400,35
|
-2,30
|
-0,57%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.859,50
|
+270,00
|
+3,14%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.438,50
|
+143,00
|
+6,23%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.205,50
|
+182,00
|
+6,02%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.861,00
|
+591,00
|
+2,34%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
650,50
|
-2,25
|
-0,34%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
738,50
|
-3,00
|
-0,40%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
340,50
|
+1,50
|
+0,44%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,85
|
-0,09
|
-0,53%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.480,50
|
-8,00
|
-0,54%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
469,60
|
-0,70
|
-0,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
62,92
|
-0,43
|
-0,68%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
856,20
|
-2,40
|
-0,28%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.690,00
|
+85,00
|
+3,26%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
158,05
|
-0,25
|
-0,16%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,17
|
+0,21
|
+1,11%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
207,40
|
+0,95
|
+0,46%
|
Bông
|
US cent/lb
|
86,22
|
+0,54
|
+0,63%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
379,90
|
+11,30
|
+3,07%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
135,20
|
-0,40
|
-0,29%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)