Trên thị trường năng lượng, giá dầu dao động trong biên độ hẹp do đồng USD suy yếu và kỳ vọng nhu cầu nhiên liệu tại Trung Quốc được cải thiện sau khi các hạn chế chống Covid-19 được nới lỏng tại 2 thành phố lớn của nước này.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 9 US cent xuống 86,88 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 67 US cent tương đương 0,8% lên 81,22 USD/thùng. Cả hai loại dầu sắp kết thúc tuần tăng đầu tiên sau 3 tuần giảm liên tiếp.
Trong phiên thứ Hai (28/11/2022), giá dầu Brent chạm 80,61 USD/thùng – thấp nhất kể từ ngày 4/1/2022.
Chiến lược gia thị trường cấp cao Eli Tesfaye tại công ty dịch vụ tài chính RJO Futures (Mỹ) cho biết thị trường đang bước vào xu hướng tăng giá, nhưng giá dầu sẽ không đạt được con số 100 USD/thùng cho dù các thành phố ở Trung Quốc mở cửa trở lại. Ông Tesfaye dự đoán giá dầu sẽ giao dịch trong khoảng 70-90 USD/thùng và dần ổn định sau khi biến động mạnh trong những tuần gần đây.
Thay đổi trong chính sách zero COVID của Trung Quốc đã làm tăng hy vọng về nhu cầu dầu phục hồi tại đây. Các thành phố như Quảng Châu và Trùng Khánh ngày 30/11 đã thông báo nới lỏng các hạn chế dịch bệnh.
Giá dầu cũng được hỗ trợ khi chỉ số đồng USD giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 8/2022 sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell cho hay tốc độ tăng lãi suất sẽ chậm lại trong tháng này. Đồng USD yếu khiến dầu rẻ hơn cho những khách mua sở hữu đồng tiền tệ khác.
Các nhà phân tích cho biết triển vọng mức trần giá dầu áp lên dầu Nga thấp hơn cũng đang hỗ trợ. Một nhà ngoại giao EU cho biết các chính phủ Liên minh châu Âu (EU) ngày 1/12 đã tạm thời đồng ý về mức trần 60 USD/thùng đối với dầu vận chuyển bằng đường biển của Nga.
Sau khi giảm xuống mức giữa 70 USD/thùng hồi đầu tuần, dầu hiện đang chuyển trọng tâm sang cuộc họp của Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) vào ngày 4/12, các lệnh trừng phạt của Nga và kho Dự trữ Dầu chiến lược (SPR) ngừng tiếp dầu ra thị trường, cả ba yếu tố này đều hỗ trợ giá.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng 2% lên vượt 1.800 USD/ounce do đồng USD suy yếu trước triển vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất chậm hơn và các dấu hiệu lạm phát của Mỹ giảm.
Theo đó, giá vàng giao ngay tăng 1,8% lên 1.800,69 USD/ounce, trong đầu phiên giao dịch giá vàng đạt 1.803,94 USD/ounce – cao nhất kể từ ngày 10/8/2022; vàng giao sau tăng 3,1% lên 1.815,2 USD/ounce.
Đồng USD giảm hơn 1% xuống mức thấp nhất gần 4 tháng so với các đồng tiền chủ chốt, khiến vàng trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao tại công ty dữ liệu kim loại Kitco Metals (Canada), cho biết thị trường vàng đang được hỗ trợ nhờ bình luận ôn hòa của Chủ tịch Fed Jerome Powell và chỉ số đồng USD giảm trở lại.
Ngày 30/11, ông Powell nói rằng đã đến lúc để làm chậm lại tốc độ tăng lãi suất, song việc kiểm soát lạm phát "sẽ cần duy trì chính sách ở mức hạn chế trong một thời gian".
Đồng USD đã giảm hơn 1% xuống mức thấp của gần bốn tháng so với rổ tiền tệ chính, khiến vàng hấp dẫn hơn cho những khách mua nước ngoài.
Các nhà giao dịch đang đặt cược 91% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm vào ngày 14/12.
Các nhà phân tích cho biết một yếu tố khác bên cạnh vấn đề lãi suất cũng đang hỗ trợ cho thị trường là dữ liệu cho thấy xu hướng lạm phát ở mức vừa phải trogn tháng 11, thúc đẩy sự quan tâm đến vàng. Vàng rất nhạy cảm với việc tăng lãi suất của Mỹ, vì điều này làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng.
Hiện sự chú ý đang hướng đến báo cáo việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ, sẽ được Bộ Lao động công bố ngày 2/12.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,3% lên 22,70 USD/ounce, và chạm mức cao nhất kể từ đầu tháng 5/2022. Giá bạch kim tăng 0,5% lên 1.038,24 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 3,2% lên 1.941,65 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do Mỹ tăng lãi suất chậm hơn và việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát Covid-19 của Trung Quốc sẽ cải thiện triển vọng nhu cầu.
Giá đồng trên sàn London tăng 1,1% lên 8.326 USD/tấn, sau khi tăng 2,5% trong phiên trước đó, khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell cho biết việc tăng lãi suất có thể chậm lại “ngay sau tháng 12/2022”.
Giá nhôm trên sàn LME tăng 0,3% lên 2.484,50 USD/tấn, kẽm tăng 1% lên 3.067 USD, niken tăng 2,3% lên 27.600 USD, chì giảm 1% xuống 2.171 USD và thiếc tăng 1,5% lên 23.260 USD.
Giá quặng sắt giảm bất chấp các hạn chế Covid-19 nghiêm ngặt tại một số thành phố của nước sản xuất thép hàng đầu thế giới – Trung Quốc – được nới lỏng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,1% xuống 766,5 CNY (108,58 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 2,1% lên 102,8 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng tăng 0,3%, thép cuộn tăng 0,9% và thép không gỉ tăng 0,4%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương tại Chicago giảm, kết thúc chuỗi tăng 5 phiên liên tiếp, do giá dầu đậu tương bị bán ra mạnh, sau khi chính phủ Mỹ đề xuất các yêu cầu pha trộn nhiên liệu sinh học thấp hơn so với dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương giảm 39-3/4 US cent tương đương 2,7% xuống 14,29-3/4 USD/bushel, sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 21/9/2022 trong phiên trước đó. Giá lúa mì giảm 12-1/2 US cent xuống 7,83 USD/bushel, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ nguồn cung của Nga và Biển Đen. Giá ngô giảm 6-1/2 US cent xuống 6,6-1/2 USD/bushel.
Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ đã đề xuất mức tăng nhỏ hơn so với dự kiến của các thương nhân về lượng ethanol và nhiên liệu sinh học khác mà các nhà máy lọc dầu phải pha trộn vào nhiên liệu của họ trong ba năm tới.
Arlan Suderman, nhà kinh tế hàng hóa trưởng của StoneX, cho biết việc sản xuất dầu diesel tái tạo, có thể được làm từ dầu đậu tương, đang tăng lên, "nhưng không phải với tốc độ phi thực tế mà các nhà quản lý quỹ mong đợi".
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 19,62 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London cũng biến đổi nhẹ ở mức 538,4 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 4,15 US cent tương đương 2,4% xuống 1,6575 USD/lb. Trong đầu phiên giao dịch, giá cà phê tăng lên mức cao nhất 4 tuần (1,7435 USD/lb).
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 5 USD tương đương 0,3% lên 1.892 USD/tấn.
Tại châu Á, giá cà phê tại Việt Nam duy trì ổn định, trong khi hoạt động giao dịch tại Indonesia trầm lắng do bước vào cuối vụ thu hoạch. Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 60-70 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London và không thay đổi so với 1 tuần trước đó. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 40.000-40.800 VND (1,63-1,66 USD)/kg, tăng so với 39.200-40.200 VND/kg 1 tuần trước đó. Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2023, tăng so với mức cộng 50 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải tăng và được thúc đẩy bởi thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh, khi các biện pháp kiềm chế Covid-19 tại một số thành phố của Trung Quốc được nới lỏng, đã nâng đỡ nhu cầu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Osaka tăng 2,3 JPY tương đương 1,1% lên 217,8 JPY (1,6 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 100 CNY lên 12.870 CNY (1.823 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore tăng 2% lên 133 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,29
|
+0,07
|
+0.46%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
87,08
|
+0,20
|
+0.15%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.390,00
|
-930,00
|
+0.56%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
6,67
|
-0,06
|
-1.96%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
234,42
|
+0,22
|
+0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
325,74
|
-0,50
|
-0,15%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
919,50
|
-33,25
|
-3,49%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.811,20
|
-4,00
|
-0,22%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.798,00
|
-8,00
|
-0,10%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,87
|
+0,02
|
+0,11%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
97,30
|
+1,50
|
+1,57%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.041,72
|
-3,18
|
-0,30%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.932,47
|
-11,47
|
-0,59%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
379,45
|
-2,30
|
-0,60%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.336,00
|
+97,00
|
+1,18%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.485,00
|
+7,50
|
+0,30%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.079,50
|
+42,00
|
+1,38%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
23.331,00
|
+410,00
|
+1,79%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
659,50
|
-1,00
|
-0,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
775,50
|
-7,50
|
-0,96%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
377,50
|
-1,00
|
-0,26%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,80
|
-0,01
|
-0,08%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.433,00
|
+3,25
|
+0,23%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
420,20
|
-1,40
|
-0,33%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
66,27
|
-1,11
|
-1,65%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
818,60
|
+5,80
|
+0,71%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.519,00
|
+21,00
|
+0,84%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
165,75
|
-4,15
|
-2,44%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,62
|
-0,01
|
-0,05%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
197,80
|
-2,90
|
-1,44%
|
Bông
|
US cent/lb
|
85,44
|
+0,59
|
+0,70%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
411,00
|
-18,40
|
-4,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
133,90
|
+1,00
|
+0,75%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)