Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng ngày thứ ba do các nhà sản xuất lớn như Saudi Arabia và UAE dường như không thể tăng sản lượng đáng kể, trong khi các chính phủ phương Tây đồng ý tìm cách giới hạn giá dầu của Nga.
Kết thúc phiên 28/6, dầu thô Brent tăng 2,89 USD hay 2,5% lên 117,58 USD/thùng, dầu WTI tăng 2,19 USD hay 2% lên 111,76 USD/thùng.
Cả hai loại dầu này tiếp tục tăng sau khi tăng gần 2% trong phiên trước khi tổ chức G7 cam kết tăng cường áp lực trừng phạt hiện nay của phương Tây đối với Nga.
Giá dầu phục hồi khi các nhà giao dịch tiếp tục theo dõi tình hình nguồn cung.
Công ty dầu mỏ quốc gia Libya ngày 27/6 cho biết đang cân nhắc việc ban bố tình trạng bất khả kháng tại khu vực vịnh Sirte trong 72 giờ, trừ phi hoạt động sản xuất và xuất khẩu được nối lại.
Các lãnh đạo G7 đã đồng ý áp đặt một lệnh cấm vận dầu của Nga đã được bán cao hơn một mức giá nhất định, mục đích làm cạn kiệt tiền bạc cho chiến tranh của Moscow.
Doanh thu xuất khẩu dầu của Nga tăng trong tháng 5 ngay cả khi khối lượng bán giảm đi, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế.
Các lệnh cấm của phương Tây đối với Nga và sản lượng dầu và khí của họ dẫn tới giá năng lượng toàn cầu tăng mạnh khi các nhà sản xuất lớn khác vẫn chưa thực hiện được đợt tăng nguồn cung đáng kể.
Saudi Arabia và UAE được xem là hai thành viên duy nhất của OPEC có công suất dự phòng để bù đắp cho nguồn cung bị mất từ Nga và sản lượng yếu từ các nước thành viên khác.
Tổng thống Pháp Emmaniel Macron nói với Tổng thống Mỹ Joe Biden bên lề cuộc họp G7 rằng UAE đang sản xuất ở công suất tối đa và Saudi Arabia có thể tăng công suất chỉ 150.000 thùng/ngày, thấp hơn nhiều công suất dự phòng của họ khoảng 2 triệu thùng/ngày.
UAE đang sản xuất gần công suất tối đa theo hạn ngạch 3,168 triệu thùng/ngày của thỏa thuận OPEC+.
Các nhà phân tích cũng cho biết bất ổn chính sách tại Ecuador và Libya có thể thắt chặt nguồn cung hơn nữa.
Trong khi đó, tồn kho dầu thô của Mỹ được dự báo giảm trong hai tuần trước, theo một thăm dò của Reuters. Báo cáo tình hình xăng dầu hàng tuần của chính phủ lẽ ra được công bố vào tuần trước những đã bị trì hoãn do sự cố phần cứng. Số liệu của cả hai tuần sẽ được công bố cùng nhau vào thứ tư (29/6).
Tình trạng thiếu hụt trên thị trường dẫn tới sự phục hồi giá trong tuần này, trái ngược với lo lắng suy thoái đã gây sức ép lên giá trong hai tuần trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng biến động trong phạm vi hẹp do khả năng tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn của vàng trong khi nguy cơ suy thoái lại thúc đẩy vàng tăng. Vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.820,31 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 đóng cửa giảm 0,2% xuống 1.821,2 USD/ounce.
Chiến lược gia thị trường cấp cao Bob Haberkorn của công ty môi giới giao dịch hàng hóa kỳ hạn RJO Futures (Mỹ) nhận định: “Giá vàng biến động trong phạm vi hẹp và sẽ tiếp tục dao động trong phạm vi này trong ngắn hạn. Thị trường sẽ chỉ tìm được hướng đi rõ ràng sau khi nhận thêm dữ liệu kinh tế và thông tin từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed)”.
Mặc dù vàng được xem là “hàng rào” chống lạm phát và bất ổn kinh tế, song việc nâng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn của vàng do nó làm tăng chi phí cơ hội cho việc nắm giữ tài sản không sinh lời này.
Phát biểu tại hội nghị thường niên của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tại Bồ Đào Nha, Chủ tịch ECB Christine Lagarde cho biết ngân hàng này sẽ hành động từ từ nhưng sẽ "ra tay" dứt khoát trước bất kỳ diễn biến xấu đi của lạm phát trong trung hạn.
Chủ tịch Fed Jerome Powell cũng dự kiến có bài phát biểu vào ngày 29/6.
Vàng gần như vẫn giữ được vị thế bất chấp đồng USD mạnh, vốn thường làm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với những người mua nắm giữ các đồng tiền khác. Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng.
Bộ Tài chính Mỹ cho biết nước này đã ban hành loạt trừng phạt mới đối với Nga do liên quan tới chiến dịch tại Ukraine như cấm nhập khẩu vàng Nga.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do USD tăng và lo ngại suy thoái kinh tế, nhưng hy vọng nhu cầu mạnh lên sau khi Trung Quốc nới lỏng việc kiểm dịch Covid-19 đã cung cấp một số hỗ trợ.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,6% xuống 8.366 USD/tấn. Giá kim loại này đã chạm mức 8.122,5 USD/tấn trong ngày 24/6, mức nhất kể từ tháng 2/2021. Giá kẽm giao sau 3 tháng tăng 0,8% lên 3.345 USD/tấn.
Cơ quan hoạch định nhà nước Trung Quốc cho biết họ sẽ tung ra các công cụ chính sách một cách kịp thời để đối phó với những thách thức kinh tế.
Những manh mối nhu cầu kim loại của Trung Quốc sẽ có trong cuối tuần này từ các cuộc khảo sát của các nhà quản lý mua hàng trong lĩnh vực sản xuất.
Đồng USD tăng giá khiến kim loại định giá bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác, xu hướng làm giảm nhu cầu.
Lo lắng về dự trữ kẽm trong các kho LME đã dịu đi khi mức chênh giữa kẽm giao ngay và giá kẽm giao sau ba tháng thu hẹp xuống 57 USD/tấn so với hơn 200 USD/tấn trong tuần trước.
Giá quặng sắt tăng lên mức cao mới trong một tuần, do Trung Quốc nới lỏng một số yêu cầu kiểm dịch đối với khách quốc tế và Bắc Kinh, Thượng Hải ghi nhận không có trường hợp nhiễm Covid-19 mới.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 7 tăng 4,1% lên 124,8 USD/tấn sau khi đạt cao nhất kể từ ngày 17/6 tại 125 USD/tấn. Trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, quặng sắt giao tháng 9 đóng cửa tăng 6,3% lên 809 CNY (120,99 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 20/6 tại 812 CNY/tấn.
Giá các sản phẩm thép và nguyên liệu đầu vào sản xuất thép cũng tăng. Thép thanh tại sàn giao dịch Thượng Hải tăng 2,5%, thép cuộn cán nóng tăng 2,1%. Thép không gỉ tăng 0,3%.
Trong khi những lo ngại về Covid-19 có thể xa dần và Bắc Kinh đã nhắc lại lời hứa tiếp tục hỗ trợ chính sách cho nền kinh tế đang khó khăn của họ, thì đợt tăng giá bền vững với sản phẩm sắt thép của Trung Quốc là không chắc chắn.
Quyết tâm của Trung Quốc để hạn chế sản lượng thép trong năm nay dưới mức năm 2021 nhằm hạn chế phát thải cũng là một áp lực với nhu cầu quặng sắt.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ tăng sau một báo cáo về tình trạng cây trồng của chính phủ Mỹ làm tăng lo ngại về vụ mùa ở Midwest khi đang gần tới giai đoạn thụ phấn quan trọng.
Lúa mì tăng do săn giá hời sau ba phiên giảm liên tiếp. Đậu tương cũng được hỗ trợ bởi tình trạng mùa màng giảm nhanh hơn dự kiến và Trung Quốc nới lỏng các quy định về Covid-19 cho khách du lịch.
Giá ngô trên sàn giao dịch Chicago CBOT đóng cửa tăng 6-1/4 US cent lên 6,59-1/4 USD/bushel. Đậu tương CBOT tăng 29-3/4 US cent lên 14,62-1/2 USD/bushel, trong khi lúa mì CBOT tăng 18-1/2 US cent lên 9,36 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 1,3% hay 0,23 US cent lên 18,53 US cent/lb sau khi giảm xuống thấp nhất kể từ ngày 1/3 tại 18,2 US cent trong ngày 27/6. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 10,9 USD hay 2% lên 552,5 USD/tấn.
Hoạt động ép mía tại khu vực trung nam Brazil thấp hơn so với ước tính của thị trường trong nửa đầu tháng 6 do thời tiết bất lợi. Một nhà môi giới Mỹ cũng cho biết sản lượng kém và hàm lượng đường thấp hơn dự kiến, điều đó đã hỗ trợ giá.
Cũng hỗ trợ đường, cổ phiếu toàn cầu và dầu tăng sau động thái nới lỏng những yêu cầu liên quan tới Covid-19 của Trung Quốc.
Trong tin tức có xu hướng giảm giá, Ấn Độ đang xem xét cho phép các nhà máy xuất kho đường thô.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 4,35 US cent hay 2% xuống 2,1775 USD/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất một tháng tại 2,1710 USD/lb. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 đóng cửa giảm 23 USD hay 1,1% xuống 2.017 USD/tấn.
Các đại lý cho biết không có nguy cơ giá rét đe dọa các khu vực trồng cà phê của Brazil trong hai tuần tới và thời tiết nói chung khô ráo có lợi cho việc thu hoạch.
Tuy nhiên, cà phê arabica đang được hỗ trợ với dự trữ được ICE chứng nhận giảm ổn định và khan hiếm bán ra tại Brazil nơi nông dân dự kiến giá trong nước sẽ tăng tiếp.
Giá cao su tại Nhật Bản ổn định do giá nguyên liệu thô của Thái Lan suy yếu, nhưng đồng JPY cũng yếu hơn và hy vọng nhu cầu của Trung Quốc phục hồi khi nước này tiếp tục nới lỏng những hạn chế về Covid-19.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,2 JPY hay 0,1% lên 259,2 JPY (1,91 USD)/kg.
Giá cao su tấm của Thái Lan đạt 71.000 baht (2,02 USD)/kg, thấp nhất kể từ ngày 11/2. Giá mủ cao su Thái xuống thấp nhất kể từ ngày 26/1 tại 43,35 baht/kg. Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 9 tăng 100 CNY lên 12.930 CNY (1.933,54 USD)/tấn, sau khi đạt cao nhất kể từ ngày 14/6 tại 12.965 CNY/tấn trong phiên này.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
112,44
|
+0,68
|
+0,61%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
118,59
|
+0,61
|
+0,52%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
83.470,00
|
+1.610,00
|
+1,97%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
6,55
|
+0,05
|
+0,77%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
391,09
|
-2,42
|
-0,62%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
418,60
|
-1,34
|
-0,32%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.239,00
|
+20,25
|
+1,66%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
84.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
20,83
|
-0,04
|
-0,20%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
90,90
|
-1,40
|
-1,52%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,83
|
-0,04
|
-0,20%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
90,90
|
-1,40
|
-1,52%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
920,20
|
+5,99
|
+0,66%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.894,11
|
+17,46
|
+0,93%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
376,50
|
-1,50
|
-0,40%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.365,50
|
-52,00
|
-0,62%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.491,00
|
-4,50
|
-0,18%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.333,00
|
+15,00
|
+0,45%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.800,00
|
-191,00
|
-0,71%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
657,50
|
-1,75
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
937,25
|
+1,25
|
+0,13%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
503,50
|
+6,50
|
+1,31%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,68
|
+0,11
|
+0,63%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.461,00
|
-1,50
|
-0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
402,10
|
+1,90
|
+0,47%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
66,48
|
-0,28
|
-0,42%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
893,80
|
+3,20
|
+0,36%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.402,00
|
-8,00
|
-0,33%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
217,75
|
-4,35
|
-1,96%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,50
|
+0,24
|
+1,31%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
171,65
|
+6,20
|
+3,75%
|
Bông
|
US cent/lb
|
93,48
|
-0,57
|
-0,61%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
581,20
|
-2,30
|
-0,39%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
161,90
|
-1,10
|
-0,67%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)