Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 2%, tiếp tục xu hướng giảm từ phiên trước do các ngân hàng trung ương lớn sắp tăng lãi suất gây sức ép lên nhu cầu và hoạt động xuất khẩu của Nga vẫn mạnh mẽ.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 1,76 USD, tương đương 2,03%, xuống 84,9 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,78 USD cent, tương đương 2,23%, xuống 77, 9 USD/thùng. Đây là mức giảm mạnh nhất gần 4 tuần. Tuần trước, cả hai loại dầu đều có tuần giảm đầu tiên trong 3 tuần.
Các nhà đầu tư kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản tại cuộc họp từ ngày 31/1-1/2, sau đó một ngày dự kiến sẽ là mức tăng lãi suất 50 điểm cơ bản của Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Bất kỳ sai lệch nào trong kịch bản này đều sẽ tác động mạnh tới thị trường.
Ông Dennis Kissler, quan chức cấp cao của ngân hàng BOK Financial (Mỹ), cho biết tâm lý lo ngại đã gia tăng trong hai tuần qua khi môi trường lãi suất cao hơn có thể làm chậm nhu cầu tiêu thụ “vàng đen”.
Thị trường cũng chịu sức ép trước những dấu hiệu cho thấy hoạt động xuất khẩu từ Nga vẫn tăng mạnh mẽ bất chấp lệnh cấm của Liên minh châu Âu (EU) và chính sách áp giá trần đối với dầu Nga.
Bên cạnh các cuộc họp của ngân hàng trung ương, cuộc họp vào ngày 1/2 của các bộ trưởng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, còn gọi là OPEC+, cũng nhận được sự quan tâm của nhà đầu tư.
Công ty môi giới dầu mỏ PVM cho rằng OPEC+ có thể "làm thị trường ngạc nhiên với một mức cắt giảm nhỏ", song tổ chức này khó có thể điều chỉnh chính sách.
Trước đó, vào thứ Hai, giá dầu tăng do căng thẳng ở Trung Đông sau vụ tấn công bằng máy bay không người lái ở Iran và hy vọng về sự gia tăng nhu cầu của Trung Quốc đã thúc đẩy giá dầu trong năm 2023. Nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới cuối tuần qua đã cam kết thúc đẩy phục hồi tiêu dùng để hỗ trợ nhu cầu
Ông Kissler nói thêm: “Các thị trường đã định giá được nhu cầu gia tăng chủ yếu từ Trung Quốc, vì vậy các thương nhân đang chờ đợi và xem thái độ đối với các dấu hiệu rõ ràng về sự sụt giảm nhu cầu”.
Các thương nhân cũng vẫn thận trọng trước tác động đối với hoạt động sản xuất và vận chuyển dầu ở Texas sau khi cơ quan quản lý dầu của bang khuyến cáo các nhà điều hành đường ống đảm bảo an toàn cho thiết bị và cơ sở vật chất sau những dự báo về thời tiết khắc nghiệt trong vài ngày tới.
Dự trữ dầu thô của Mỹ dự kiến sẽ giảm khoảng 1 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 27 tháng 1, trong khi dự trữ xăng dự kiến sẽ tăng, một cuộc thăm dò sơ bộ của Reuters cho thấy.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do các nhà đầu tư chờ đợi cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong tuần này trong bối cảnh kỳ vọng tốc độ tăng lãi suất chậm lại.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 0,2% xuống 1.924,05 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2023 giảm 0,3% xuống 1.922,9 USD/ounce.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cao cấp của công ty dịch vụ tài chính RJO Futures (Mỹ), nhận định chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang là nhân tố chi phối thị trường vàng.
Dự kiến, Fed sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản tại cuộc họp từ ngày 31/1-1/2. Kỳ vọng về việc Fed tăng lãi suất chậm lại đã tăng lên sau khi chi tiêu tiêu dùng Mỹ giảm tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 12/2022 và khiến triển vọng tăng trưởng kinh tế tăng trưởng trong năm 2023 thấp hơn.
Tuy nhiên, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp tiếp tục giảm - tín hiệu về sự thắt chặt của thị trường lao động qua đó buộc Fed phải tiếp tục tăng lãi suất.
Trong khi đó, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Chính phủ Mỹ dao động gần mức cao nhất trong hai tuần, còn đồng USD tăng 0,2%, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ ngoại tệ.
Michael Hewson, trưởng bộ phận phân tích thị trường của công ty dịch vụ tài chính CMC Markets (Anh), cho rằng một đợt tăng lãi suất mạnh bất ngờ của Fed có thể khiến giá giảm trở lại mức 1.900 USD/ounce trong thời gian ngắn.
Đối với các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,1% lên 23,59 USD/ounce, bạch kim tăng 0,2% lên 1.014,38 USD, trong khi palladium tăng 1,4% lên 1.641,05 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo ngại triển vọng nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – trước số liệu từ lĩnh vực sản xuất của nước này, trong khi đồng USD giảm cũng hạn chế đà suy giảm giá đồng.
Giá đồng trên sàn London giảm 0,7% xuống 9.197 USD/tấn, sau khi hồi đầu tháng đạt mức cao nhất 7 tháng, khi Trung Quốc dỡ bỏ các hạn chế chống Covid-19.
Edward Meir, nhà phân tích của ED&F Man Capital Markets, cho biết: “Từ lâu, chúng tôi đã lập luận rằng Fed sẽ cần tạm dừng lãi suất vào một thời điểm nào đó, nhưng chúng tôi nghĩ rằng họ sẽ không làm như vậy tại cuộc họp cụ thể này”.
Trong khi đó, thị trường kẽm tập trung vào việc dự trữ đang giảm dần trong các kho được LME phê duyệt, ở mức 17.425 tấn, mức thấp nhất kể từ năm 1989.
Giá kẽm phiên này tăng 0,7% lên 3.438 USD/tấn; nhôm giảm 1,5% xuống 2.588 USD/tấn, chì giảm 1,7% xuống 2.145 USD, thiếc giảm 3,6% xuống 29.740 USD và niken tăng 1,5% lên 29.350 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán tại Trung Quốc kéo dài 1 tuần, tăng hơn 3% do lạc quan về triển vọng nhu cầu đối với nước sản xuất thép hàng đầu thế giới.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 2% lên 873,5 CNY (129,4 USD)/tấn, sau khi đạt 890 CNY/tấn trong đầu phiên giao dịch; quặng sắt kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore tăng 1,1% lên 127,8 USD/tấn, giảm từ mức cao 130,55 USD/tấn trong đầu phiên giao dịch.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây và thép cuộn cán nóng đều tăng 0,6%, thép cuộn tăng 1,3%, trong khi thép không gỉ giảm 0,1%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ tăng do lo ngại hạn hán ảnh hưởng đến năng suất cây trồng tại Argentina có thể đối mặt với thời tiết khô hơn.
Giá lúa mì tăng sau khi đạt mức cao nhất 4 tuần trong đầu phiên giao dịch, do lo ngại thời tiết lạnh tại khu vực vành đai trồng lúa mì Mỹ, trong khi xung đột Nga – Ukraine gia tăng cũng hỗ trợ giá. Trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 25-3/4 US cent lên 15,35-1/4 USD/bushel, sau khi đạt 15,38 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 18/1/2023. Giá lúa mì tăng 2-1/2 US cent lên 7,52-1/2 USD/bushel, sau khi đạt 7,62-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 4/1/2023. Giá ngô tăng 3/4 US cent lên 6,83-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô tăng lên mức cao nhất gần 6 năm, khi triển vọng sản lượng tại Ấn Độ giảm, làm gia tăng lo ngại nguồn cung thắt chặt.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 1,6% lên 21,3 US cent/lb, sau khi đạt 21,31 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 2/2017; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London tăng 0,3% lên 564,1 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,4% lên 1,7065 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London giảm 0,6% xuống 2.040 USD/tấn.
Trong tháng 1/2023, Việt Nam xuất khẩu 160.000 tấn cà phê, giảm 30,9% so với cùng tháng năm ngoái.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm do hoạt động bán ra chốt lời sau khi tăng mạnh trong tuần trước đó, ngay cả khi giá cao su thị trường Thượng Hải tăng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài 1 tuần.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Osaka giảm 2,6 JPY tương đương 1,1% xuống 232,9 JPY (1,8 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY lên 13.345 CNY (1.976 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore giảm 1,1% xuống 144,2 US cent/kg
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
77,46
|
-0,44
|
-0,56%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
84,65
|
-0,25
|
-0,29%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
63.050,00
|
-990,00
|
-1,55%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,71
|
+0,03
|
+1,05%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
248,25
|
-1,64
|
-0,66%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
311,35
|
+0,27
|
+0,09%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
892,50
|
-17,00
|
-1,87%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.929,80
|
-9,40
|
-0,48%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.994,00
|
-31,00
|
-0,39%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,53
|
-0,21
|
-0,88%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
97,30
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.003,77
|
-9,91
|
-0,98%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.636,15
|
-7,90
|
-0,48%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
416,50
|
-3,70
|
-0,88%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.210,00
|
-53,50
|
-0,58%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.589,50
|
-37,50
|
-1,43%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.446,00
|
+32,50
|
+0,95%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
29.809,00
|
-1.029,00
|
-3,34%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
683,25
|
-0,50
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
752,00
|
-0,50
|
-0,07%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
393,50
|
+2,00
|
+0,51%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
18,12
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.536,75
|
+1,50
|
+0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
488,20
|
-0,50
|
-0,10%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,63
|
+0,31
|
+0,51%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
830,00
|
+3,20
|
+0,39%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.611,00
|
-16,00
|
-0,61%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
170,40
|
+0,50
|
+0,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
21,21
|
+0,25
|
+1,19%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
209,30
|
+3,55
|
+1,73%
|
Bông
|
US cent/lb
|
85,80
|
+0,70
|
+0,82%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
516,50
|
+24,00
|
+4,87%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
146,50
|
-0,50
|
-0,34%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)