Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh
Trong phiên cuối tuần (16/12), giấ dầu giảm hơn 2 USD/thùng do lo ngại kinh tế toàn cầu suy thoái sau khi các ngân hàng trung ương trên khắp châu Âu và Bắc Mỹ cho biết sẽ tiếp tục chống lại lạm phát 1 cách quyết liệt, đồng nghĩa với lãi suất tiếp tục tăng.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giảm 2,17 USD tương đương 2,4% xuống 79,04 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,82 USD, tương đương 2,4%, xuống 74,29 USD/thùng.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu đều tăng giá mạnh nhờ giá tăng liên tiếp trong 3 phiên đầu tuần, với dầu WTI và Brent tăng tương ứng 4,6% và 3,9% nhờ khả năng nhu cầu dầu tại Trung Quốc sẽ tăng khi mở cửa trở lại nền kinh tế sau giai đoạn chống dịch COVID-19. Hợp đồng tương lai dầu Brent ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ đầu tháng 10 nhưng mức tăng đó theo sau tuần tồi tệ nhất kể từ tháng 8.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho biết họ sẽ tăng lãi suất hơn nữa vào năm tới, ngay cả khi nền kinh tế có thể rơi vào suy thoái. Hôm thứ Năm, Ngân hàng Trung ương Anh và Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng tăng lãi suất để chống lạm phát.
Robert Yawger, giám đốc phụ trách năng lượng tương lai củaMizuho, cho biết: “Các phát ngôn về lãi suất đột nhiên trở thành mối lo ngại hàng đầu vè nhu cầu suy giảm khi đối mặt với suy thoái kinh tế.”. "Tình hình kinh tế kém khả quan hơn. Không phải hôm nay, nhưng có vẻ giá dầu đang hướng về mức 70 USD một lần nữa và mọi thứ có thể trở nên rất tồi tệ từ đó."
Trong tuần qua, giá các loại dầu thô nặng đã tăng lên khi đường ống dẫn dầu Keystone ngừng hoạt động sau sự cố tràn dầu thô ở bang Kansas (Mỹ). Matt Smith, nhà phân tích dầu mỏ hàng đầu của Kpler cho biết, mặc dù việc ngừng cung cấp hỗ trợ cho giá của các loại dầu thô nặng, nhưng điều đó "không ảnh hưởng gì" đối với các loại dầu nhẹ.
Giá dầu đã nhanh chóng hồi phục sau khi các quan chức Bộ Năng lượng Mỹ cho biết sẽ mua 3 triệu thùng dầu thô trong nước để bổ sung vào kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược, lần mua đầu tiên kể từ đợt giải phóng kỷ lục 180 triệu thùng từ kho dự trữ trong năm nay.
Ông Smith cho biết: “Không rõ liệu việc mua lại SPR này là thử nghiệm một lần hay là sự khởi đầu của một xu hướng. Nếu chỉ diễn ra một lần, thì đó không phải là sự kiện”.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần, nhưng tính chung cả tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 11/2022 sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho biết sẽ tăng lãi suất nhiều hơn để kiềm chế lạm phát.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao tăng 0,8% lên 1.791,59 USD/ounce, song tính chung cả tuần giảm 0,3%; vàng kỳ hạn tháng 2/2023 tăng 0,7% lên 1.800,2 USD/ounce.
Nhà phân tích cao cấp Edward Moya của công ty OANDA cho biết: “Các thương nhân đang tập trung vào Fed và ECB, điều này cho thấy chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục bị thắt chặt thêm nữa và lợi suất trái phiếu toàn cầu tăng đáng kể. Đó là nguyên nhân tại sao vàng có tuần giảm mạnh”.
Fed hôm thứ Tư đã tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản như dự kiến, và Chủ tịch Jerome Powell cho biết ngân hàng trung ương Mỹ sẽ đưa ra nhiều đợt tăng lãi suất hơn vào năm tới, bất chấp những lo ngại về suy thoái kinh tế đang gia tăng. Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Anh đã báo hiệu các chiến lược tăng lãi suất tương tự.
Vàng được coi là một hàng rào chống lại lạm phát, nhưng việc tăng lãi suất làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không mang lại lợi suất.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals, cho biết giá đã ổn định hơn vào thứ Sáu nhờ sự phục hồi điều chỉnh từ áp lực bán mạnh trong phiên trước đó.
Commerzbank dự kiến giá vàng sẽ giảm trở lại xuống 1.750 USD/ounce cho đến khi chu kỳ tăng lãi suất của Fed kết thúc và dự kiến giá vàng sẽ tăng lên 1.850 USD/ounce vào cuối năm 2023.
Giá bạc giao ngay trong phiên cuối tuần tăng 0,4% lên 23,14 USD/ounce, nhưng giảm khoảng 1,3% từ đầu tuần đến nay; bạch kim giảm 1,4% còn 992,43 USD, trong khi palladium giảm 4,3% xuống còn 1.713,81 USD sau khi giảm hơn 8% trong phiên trước đó và hướng tới mức giảm hàng tuần lớn nhất trong 5 tháng.
Kim loại công nghiệp: Giá kim loại cơ bản đồng loạt giảm
Giá đồng giảm do lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu và số ca nhiễm Covid-19 tại Trung Quốc tăng, sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 8.278 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất hơn 5 tháng (8.600 USD/tấn) trong phiên ngày 12/12/2022. Tính chung cả tuần, giá đồng giảm 3%. Giá đồng kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 1,14% xuống 65.260 CNY (9.370,24 USD)/tấn.
Trong số các kim loại khác, nhôm ít thay đổi ở mức 2.383,50 USD/tấn, niken tăng 0,1% lên 28.330 USD và thiếc tăng 0,6% lên 23.745 USD, nhưng chì giảm 0,3% xuống 2.147,50 USD và kẽm giảm 3,9% xuống 3.035,50 USD.
Edward Gardner, nhà kinh tế hàng hóa của Capital Economics, cho biết: “Các vấn đề về COVID của Trung Quốc vẫn là một trở ngại đối với giá kim loại công nghiệp”."Mặc dù chúng tôi thấy các hạn chế đã được nới lỏng, nhóm chuyên gia kinh tế vè Trung Quốc của chúng tôi đang đưa ra quan điểm rằng triển vọng ngắn hạn đối với hoạt động của Trung Quốc là khá ảm đạm."
Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại cơ bản hàng đầu, đã đưa ra các kế hoạch khẩn cấp để bảo vệ các cộng đồng nông thôn khỏi COVID-19 vào thứ Sáu khi hàng triệu cư dân thành phố lên kế hoạch cho kỳ nghỉ lần đầu tiên sau nhiều năm.
Nhà phân tích Natalie Scott-Gray thuộc StoneX Financial cho biết, Trung Quốc đã đưa ra một số chính sách nhằm thúc đẩy ngành bất động sản, song những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng trong nước sẽ không được thực hiện trong thời gian tới.
Giá quặng sắt tại Đại Liên có tuần tăng thứ 3 liên tiếp, do lạc quan về triển vọng hồi phục nền kinh tế Trung Quốc trong năm 2023.
Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,5% lên 821 CNY (117,81 USD)/tấn, trước đó trong phiên đạt 841,5 CNY/tấn – cao nhất kể từ ngày 13/6/2022. Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Singapore giảm 1,2% xuống 110,15 USD/tấn.
ANZ điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2023 từ 4,2% lên 5,4%, do việc nới lỏng các hạn chế sẽ thúc đẩy nhu cầu trong nước về lâu dài. Tuy nhiên, làn sóng lây nhiễm Covid-19 hiện nay có thể kéo dài thời kỳ suy thoái trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc và lĩnh vực xây dựng trong mùa đông chậm lại, đã hạn chế nhu cầu quặng sắt trong ngắn hạn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,5%, thép cuộn tăng 0,9%, trong khi thép cuộn cán nóng duy trì vững và thép không gỉ giảm 2,1%.
Nông sản: Giá ngô tăng, cà phê và đậu tương giảm
Phiên 16/12, giá ngô và lúa mì trên sàn Chicago cùng giảm do lo ngại nền kinh tế toàn cầu suy thoái.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 3-3/4 US cent xuống 7,53-1/2 USD/bushel. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá lúa mì tăng 2,6% - tuần tăng mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 29/9/2022 và rời bỏ chuỗi giảm 5 tuần liên tiếp. Giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 1/2 US cent xuống 6,53 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 1,4%. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 6-1/2 US cent lên 14,8 USD/bushel. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá đậu tương giảm 0,3%.
Đợt mưa gần đây ở khu vực miền Bắc và miền Trung Brazil đang tạo điều kiện thuận lợi cho mùa màng, ước tính sản lượng đậu tương sẽ đạt mức kỷ lục. Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago nhận thấy giá lúa mỳ có thể được giao dịch trong khoảng từ 7,2-8 USD/bushel, trong khi đậu tương sẽ phải vật lộn để vượt qua ngưỡng 15 USD/bushel và giá ngô giao tháng 3/2023 vào khoảng 6,6 USD/bushel.
Cơ quan Thống kê Liên bang Nga (Rosstat) cho biết dự trữ ngũ cốc của Nga tính đến ngày 1/12 là 39,4 triệu tấn, tăng 10 triệu tấn hay 34% so với năm ngoái. Dự trữ lúa mỳ của Nga vào ngày 1/12 được chốt ở mức 25,6 triệu tấn, tăng 8,8 triệu tấn so với năm 2021; và dự trữ ngô ở mức 3,3 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn.
Dự kiến tiến độ thu hoạch vụ ngô năm 2022 của Ukraine sẽ chậm trễ do thiếu thiết bị thu hoạch, thời tiết xấu và mất điện. Dự báo thời tiết khu vực phía Nam Brazil cho thấy sẽ có mưa rào vào cuối ngày thứ Hai và thứ Ba. Khu vực phía Tây Argentina cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi mưa gió trong 6-10 ngày.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE phiên cuối tuần tăng 0,11 US cent tương đương 0,6% lên 20,09 US cent/lb; tính chung cả tuần, giá đường tăng 2,5%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London tăng 1,8 USD tương đương 0,3% lên 546,8 USD/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm hơn 4%, trong bối cảnh tồn trữ tăng song vẫn có tuần tăng. Theo đó, cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE giảm hơn 4% tương đương 4,3% xuống 1,644 USD/lb; tuy nhiên, tính chung cả tuần giá arabica tăng 3,95%. Trong khi đó, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London giảm 12 USD tương đương 0,6% xuống 1.866 USD/tấn.
Các thị trường cà phê kỳ hạn tiếp tục biến động với hai xu hướng khác biệt, giảm mạnh ở New York và giảm tương đối nhẹ tại London. Báo cáo tồn kho của Hiệp hội Cà phê Hạt (GCA) cho thấy nguồn dự trữ tại khu vực Bắc Mỹ vẫn dồi dào khi tăng thêm 1,1% so với tháng trước, lên ở mức 6,39 triêu bao tính đến cuối tháng 11 và tồn kho Arabica do ICE quản lý đã tăng lên mức cao 5 tháng sau khi về đứng ở mức thấp 23 năm.
Trong khi đó, tồn kho Robusta của ICE tại London tiếp tục giảm xuống mức thấp 5 năm rưỡi đã đẩy giá kỳ hạn giao ngay chênh lệch tới 67 USD/tấn so với kỳ hạn giao gần nhất là điều hiếm khi xảy ra trên bảng giá điện tử. Điều này chứng tỏ nhu cầu Robusta giao ngay hiện khá căng thẳng đã hỗ trợ giá kỳ hạn sàn London biến động theo cách riêng của mình mà không tương tác với Arabica sàn New York như thường thấy.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, theo xu hướng giá trên sàn Thượng Hải do kỳ vọng nhu cầu tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – phục hồi, song hoạt động nhà máy trong nước đáng thất vọng gây áp lực thị trường và hạn chế đà tăng giá.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Osaka tăng 0,4 JPY tương đương 0,2% lên 230,5 JPY (1,68 USD)/kg; tính chung cả tuần giá tăng 0,2%. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 100 CNY lên 13.090 CNY (1.880 USD)/tấn; giá cao su kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn Singapore tăng 1% lên 137,7 US cent/kg.
Hoạt động sản xuất của Nhật Bản trong tháng 12/2022 giảm mạnh nhất hơn 2 năm, do nhu cầu giảm và áp lực chi phí kéo dài.
Giá hàng hóa thế giới
|
|
ĐVT
|
Giá 9/12
|
Giá 16/12
|
Giá 16/12 so với
15/12
|
Giá 16/12 so với
15/12 (%)
|
Dầu thô WTI
|
|
USD/thùng
|
71,60
|
75,37
|
+1,08
|
+1,45%
|
Dầu Brent
|
|
USD/thùng
|
76,56
|
80,18
|
+1,14
|
+1,44%
|
Dầu thô TOCOM
|
|
JPY/kl
|
60.720,00
|
62.240,00
|
-670,00
|
-1,07%
|
Khí thiên nhiên
|
|
USD/mBtu
|
6,85
|
6,19
|
-0,41
|
-6,27%
|
Xăng RBOB FUT
|
|
US cent/gallon
|
205,33
|
216,51
|
+3,28
|
+1,54%
|
Dầu đốt
|
|
US cent/gallon
|
282,65
|
316,37
|
+4,38
|
+1,40%
|
Dầu khí
|
|
USD/tấn
|
820,75
|
898,00
|
+12,00
|
+1,35%
|
Dầu lửa TOCOM
|
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
|
USD/ounce
|
1.798,30
|
1.803,90
|
+3,70
|
+0,21%
|
Vàng TOCOM
|
|
JPY/g
|
7.846,00
|
7.833,00
|
-7,00
|
-0,09%
|
Bạc New York
|
|
USD/ounce
|
23,51
|
23,47
|
+0,14
|
+0,59%
|
Bạc TOCOM
|
|
JPY/g
|
99,80
|
99,40
|
+0,50
|
+0,51%
|
Bạch kim
|
|
USD/ounce
|
1.015,90
|
1.003,90
|
+9,37
|
+0,94%
|
Palađi
|
|
USD/ounce
|
1.940,05
|
1.740,38
|
+19,63
|
+1,14%
|
Đồng New York
|
|
US cent/lb
|
382,20
|
381,05
|
+4,90
|
+1,30%
|
Đồng LME
|
|
USD/tấn
|
8.543,00
|
8.266,50
|
-27,00
|
-0,33%
|
Nhôm LME
|
|
USD/tấn
|
2.480,50
|
2.375,00
|
-9,00
|
-0,38%
|
Kẽm LME
|
|
USD/tấn
|
3.240,50
|
3.018,00
|
-142,00
|
-4,49%
|
Thiếc LME
|
|
USD/tấn
|
24.290,00
|
23.535,00
|
-65,00
|
-0,28%
|
Ngô
|
|
US cent/bushel
|
646,50
|
648,00
|
-5,00
|
-0,77%
|
Lúa mì CBOT
|
|
US cent/bushel
|
741,75
|
754,25
|
+0,75
|
+0,10%
|
Lúa mạch
|
|
US cent/bushel
|
334,00
|
337,25
|
-1,25
|
-0,37%
|
Gạo thô
|
|
USD/cwt
|
16,73
|
17,09
|
+0,06
|
+0,32%
|
Đậu tương
|
|
US cent/bushel
|
1.469,50
|
1.464,25
|
-19,50
|
-1,31%
|
Khô đậu tương
|
|
USD/tấn
|
463,30
|
446,90
|
-13,30
|
-2,89%
|
Dầu đậu tương
|
|
US cent/lb
|
59,05
|
62,16
|
-0,30
|
-0,48%
|
Hạt cải WCE
|
|
CAD/tấn
|
853,70
|
855,10
|
-1,90
|
-0,22%
|
Cacao Mỹ
|
|
USD/tấn
|
2.504,00
|
2.475,00
|
-42,00
|
-1,67%
|
Cà phê Mỹ
|
|
US cent/lb
|
158,15
|
164,40
|
-7,35
|
-4,28%
|
Đường thô
|
|
US cent/lb
|
19,60
|
20,09
|
+0,11
|
+0,55%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
|
US cent/lb
|
215,15
|
204,15
|
+5,00
|
+2,51%
|
Bông
|
|
US cent/lb
|
80,32
|
81,78
|
-0,14
|
-0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
|
USD/1000 board feet
|
412,50
|
388,40
|
-6,60
|
-1,67%
|
Cao su TOCOM
|
|
JPY/kg
|
137,80
|
137,40
|
-0,60
|
-0,43%
|
Ethanol CME
|
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)