Năng lượng: Giá dầu giảm gần 2% trong tuần qua
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu tăng nhẹ do sự cố tràn dầu tại kho cảng Basra của Iraq - có thể hạn chế nguồn cung dầu thô, nhưng tính cả tuần giá vẫn giảm do lo ngại việc các ngân hàng trung ương tăng lãi suất mạnh sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu nhiên liệu.
Chốt phiên cuối tuần dầu thô Brent tăng 51 US cent lên 91,35 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1 US cent lên 85,11 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều giảm gần 2%, chủ yếu do USD mạnh lên khiến dầu trở nên đắt hơn đối với người mua bằng các đồng tiền khác. Chỉ số USD phần lớn ổn định trong ngày 16/9 nhưng tăng tuần thứ tư trong 5 tuần.
Tính từ đầu quý 3 đến nay, giá cả dầu Brent và WTI đều giảm khoảng 20%, quý giảm mạnh nhất tính theo phần trăm kể từ đầu đại dịch Covid-19, năm 2020.
Xuất khẩu dầu từ kho cảng Basra của Iraq đang dần được khôi phục sau khi dừng hoạt động từ giữa đêm trước do sự cố tràn dầu. Sự cố tràn dầu tại cảng này, nơi có 4 giàn nạp dầu và có thể xuất khẩu tới 1,8 triệu thùng mỗi ngày, đã khiến giá tăng do khả năng nguồn cung dầu thô toàn cầu giảm.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Điều đó chắc chắn đã gây ra một nỗi sợ hãi cho thị trường bởi vì báo cáo ban đầu cho rằng những thùng dầu đó sẽ không còn được bán trên thị trường trong một thời gian nữa”.
Các nhà phân tích cho biết tâm lý bị ảnh hưởng bởi những bình luận của Bộ Năng lượng Mỹ rằng họ không thể tìm cách bổ sung vào Kho dự trữ Dầu mỏ Chiến lược cho đến sau năm tài chính 2023.
Về mặt nguồn cung, thị trường đã tìm thấy một số yếu tố hỗ trợ do khó có khả năng dầu thô Iran trở lại thị trường khi các quan chức phương Tây giảm triển vọng khôi phục thỏa thuận hạt nhân với Iran.
Các nhà đầu tư đang chuẩn bị cho việc Mỹ tăng lãi suất, vì điều đó có thể dẫn đến suy thoái kinh tế và giảm nhu cầu nhiên liệu. Cục Dự trữ Liên bang được cho là sẽ nâng lãi suất tham chiếu qua đêm thêm 75 điểm cơ bản tại cuộc họp chính sách vào ngày 20-21/9.
Thị trường cũng bị xáo trộn bởi đánh giá của của Cơ quan Năng lượng Quốc tế về mức tăng trưởng nhu cầu dầu gần như bằng không trong quý IV do triển vọng nhu cầu ở Trung Quốc yếu đi.
Nhà phân tích Stephen của PVM cho biết: "Cả IMF và Ngân hàng Thế giới đều cảnh báo rằng nền kinh tế toàn cầu có thể suy thoái vào năm tới.” "Lo ngại suy thoái cùng với kỳ vọng lãi suất của Mỹ tăng đã tạo ra một loại cocktail giảm giá mạnh."
Các nhà phân tích khác cho biết tâm lý bị ảnh hưởng bởi các bình luận của Bộ Năng lượng Mỹ rằng họ khả năng sẽ không tìm cách bổ sung vào Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược cho đến sau năm tài chính 2023.
Về phía nguồn cung, thị trường đã tìm thấy một số yếu tố có thể khiến giá dầu giảm, đó là việc dầu thô Iran quay trở lại khi các quan chức phương Tây giảm triển vọng khôi phục thỏa thuận hạt nhân với Tehran.
Giá dầu có thể cũng được hỗ trợ trong quý IV nếu các thành viên OPEC+ cắt giảm sản lượng, điều này sẽ được thảo luận trong cuộc họp của nhóm vào tháng 10. Châu Âu đối mặt với khủng hoảng năng lượng do không chắc chắn về nguồn cung dầu và khí đốt từ Nga.
Theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes, các công ty năng lượng Mỹ trong tuần này đã bổ sung giàn khoan dầu và khí đốt lần đầu tiên trong ba tuần khi giá dầu thô tương đối cao đã khuyến khích một số công ty tăng cường khoan dầu, chủ yếu ở lưu vực Permian.
Kim loại quý: Giá vàng giảm mạnh nhất trong 1 tháng
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần do USD chững lại, nhưng sự gia tăng của đồng bạc xanh trong tuần này và dự kiến về đợt tăng lãi suất đáng kể của Mỹ khiến vàng giảm dưới mốc 1.700 USD và tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng 4 tuần.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.672,48 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 tăng 0,4% lên 1.683,5 USD/ounce.
Tính chung cả tuần vàng giảm 2,5%, trong tuần có thời điểm giá vàng xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4/2020.
Vàng không tận dụng được lo ngại rủi ro suy thoái Mỹ gia tăng trong tuần, và “thậm chí không được xem là một kênh trú ẩn an toàn” vào dịp này.
Góp phần nâng đỡ giá vàng phiên này là việc đồng USD có lúc giảm nhẹ trước khi chững lại. Tuy nhiên, “đồng bạc xanh” vẫn ghi nhận mức tăng trong cả tuần qua, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Thị trường cho rằng có tới 75% khả năng Fed sẽ nâng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm vào tuần tới và 25% khả năng Fed sẽ nâng lãi suất thêm 1 điểm phần trăm.
Nhu cầu vàng giao ngay đã phục hồi tại Ấn Độ do giá trong nước giảm trước các lễ hội quan trọng, trong khi mức cộng của giá vàng tại Trung Quốc so với giá tham chiếu quốc tế tăng lên.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm trong tuần
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần, nhưng tính chung cả tuần giảm do các nhà đầu tư lo lắng về tăng trưởng kinh tế chậm lại và đồng nhân dân tệ của Trung Quốc yếu, khiến các kim loại định giá bằng USD đắt hơn cho khách hàng Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,6% lên 7.772,5 USD/tấn nhưng giảm 1,1% trong cả tuần này. Giá đồng đã giảm 30% kể từ mức đỉnh hồi tháng 3, nhưng giữ trong phạm vi 7.500 – 8.000 USD/tấn kể từ tháng 7.
Đồng CNY đã giảm khoảng 3,5% so với USD trong tháng qua. Trong ngày 16/9 đồng CNY đã giảm dưới mức tâm lý quan trọng là 7 CNY lần đầu tiên trong 3 năm trước khi phục hồi phần nào.
Nền kinh tế Trung Quốc phục hồi nhiều hơn dự kiến trong tháng 8 và sản lượng của nhà máy tăng nhanh hơn dự đoán, nhưng sự sụt giảm ngày càng sâu của lĩnh vực bất động sản đang khiến các nhà dự báo lo lắng. Trong khi đó Ngân hàng Thế giới dự đoán kinh tế toàn cầu có thể tiến tới suy thoái.
Giá quặng sắt tại Đại Liên và Singapore giảm sau khi số liệu cho thấy lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc giảm hơn nữa trong tháng 8, với sự gia tăng nhu cầu theo mùa thường thấy vào đầu tháng 9 vẫn chưa xuất hiện. Đầu tư bất động sản vào tháng trước tại Trung Quốc giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 12/2021, theo tính toán của Reuters dựa trên số liệu chính thức. Giá nhà mới giảm 1,3% so với năm trước, tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 8/2015.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1,2% xuống 715 CNY (101,89 USD)/tấn; quặng sắt giao tháng 10 trên sàn Singapore giảm 2,6% xuống 98,05 USD/tấn, giao dịch dưới 100 USD lần đầu tiên trong tuần này. Giá thép thanh tại Thượng Hải giảm 1,6%, thép cuộn cán nóng giảm 1,3% và thép không gỉ giảm 1,9%.
Các nhà hoạch định chính sách đã công bố hơn 50 biện pháp hỗ trợ kinh tế kể từ cuối tháng 5 và tuần trước nhấn mạnh rằng quý này là thời điểm quan trọng quan trọng để thay đổi chính sách.
Các nhà phân tích dự kiến gián đoạn bởi Covid-19 tới hoạt động kinh doanh ở Trung Quốc khiến các nhà đầu tư thận trọng. Các thương nhân phần lớn không quan tâm tới số liệu tăng trưởng sản xuất và doanh số bản lẻ ở Trung Quốc nhanh hơn dự kiến trong tháng 8.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc tăng 3% trong tháng 8 so với một tháng trước do các nhà máy thép thấy nhu cầu tốt hơn và hoạt động đã được khôi phục.
Nông sản: Giá đậu tương tăng, ngô giảm
Trong phiên giao dịch 16/9, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago, Mỹ (CBOT) đi ngược chiều nhau, trong đó giá ngô và đậu tương giảm nhẹ, còn giá lúa mỳ tăng.
Giá ngô trên sàn giao dịch Chicago gần như không đổi trong phiên giao dịch cuối tuần. Lo ngại về suy thoái kinh tế và sự suy yếu của các thị trường khác tác động bất lợi tới giá ngũ cốc. Trong khi đó, giá đậu tương giảm do lo ngại về khả năng cạnh tranh về xuất khẩu đậu tương từ Nam Mỹ
Kết thúc phiên này, giá ngô kỳ hạn tháng 12 giảm 1/4 US cent xuống 6,77-1/4 USD/bushel. Hợp đồng này đã giảm 1,1% trong tuần. Giá đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11 giảm 3 US cent xuống 14,48-1/2 USD/bushel, tính chung cả tuần tăng 2,6%.
Giá lúa mỳ đã tăng lên sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin bóng gió về một cuộc xung đột kéo dài với Ukraine. Trong khi giá ngô và đậu tương giảm do vụ thu hoạch ở Trung Tây đang chờ xử lý. Giá lúa mỳ giao tháng 12/2022 tăng 14,75 US cent trong phiên cuối tuần (1,75%) lên 8,5975 USD/bushel.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12 kết thúc phiên giảm 15,2 USD hay 2,8% xuống 527,8 USD/tấn, sau khi chạm mức cao nhất 10 năm tại 541 USD/tấn. Đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,3 US cent hay 1,7% xuống 17,88 US cent/lb.
Các đại lý cho biết đường trắng kỳ hạn tháng 10 đáo hạn ở mức cộng 79,8 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 12. Điều đó, kết hợp với lượng giao hàng tương đối ít cho thấy nguồn cung trong ngắn hạn khan hiếm.
Dự trữ đường trắng đã cạn kiệt tại một số nước nhập khẩu chính trong khi xuất khẩu của Ấn Độ vẫn thấp, các đại lý lo ngại rằng giá trong nước ở Ấn Độ cao hơn giá thị trường toàn cầu.
Ấn Độ đã sẵn sàng cho phép xuất khẩu 5 triệu tấn đường trong đợt đầu tiên của năm thị trường mới bắt đầu trong tháng 10 và có thể cho phép tiếp 3 – 5 triệu tấn vào cuối năm nay.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa phiên cuối tuần giảm 1,3 US cent hay 0,6% xuống 2,151 USD/lb, trước đó đã xuống mức thấp nhất trong gần 1 tháng tại 2,1135 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 24 USD hay 1,1% xuống 2.202 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất trong hơn một tháng tại 2.171 USD/tấn.
Giá cà phê Robusta bất ngờ lao dốc sau các thông tin cho rằng sản lượng robusta vụ năm nay của Brazil đạt mức kỷ lục “chưa từng có”, kết quả sau nhiều năm mở rộng diện tích trồng mới, với tham vọng sẽ cạnh tranh với vị trí là nhà sản xuất Robusta số một của Việt Nam.
Hợp tác xã Cooxupe của Brazil dự kiến xuất khẩu cà phê tại nước này sụt giảm trong nửa đầu năm 2023 sau khi thu hoạch năm 2022 ít hơn dự kiến.
Trong khi đó, chỉ số đồng USD duy trì đà tăng và chứng khoán Mỹ tiếp tục sụt giảm đã đẩy các tiền tệ mới nổi vào thế bất lợi. Phần lớn nhà đầu tư tiếp tục đứng bên ngoài các thị trường do lo ngại lãi suất sẽ tăng cao giữa bối cảnh báo cáo các chỉ số kinh tế Mỹ có khả năng khiến Fed sẽ mạnh tay thắt chặt tiền tệ.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản kết thúc 6 phiên tăng giá liên tiếp trong bối cảnh nhu cầu yếu do lo lắng về suy thoái kinh tế toàn cầu, mặc dù sự gia tăng tại thị trường Thượng Hải đã hạn chế đà giảm.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 2,5 JPY hay 1,1% xuống 223,9 JPY (1,56 USD)/kg. Tính chung cả tuần giá tăng 2,8%. Sàn giao dịch Osaka sẽ đóng cửa trong ngày đầu tuần tới (19/9) vì nghỉ lễ tại Nhật Bản. Chỉ số Nikkei của Nhật Bản đóng cửa giảm 1,11%.
Giá cao su tại Thượng Hải giao tháng 1 tăng 45 CNY lên 12.970 CNY (1.850 USD)/tấn; giá tại Singapore kỳ hạn tháng 10 giảm 1,3% xuống 133,7 U.S. cent/kg.
Ngân hàng Thế giới WB cho biết thế giới có thể đang tiến tới một cuộc suy thoái toàn cầu khi các ngân hàng trung ương khắp thế giới đồng loạt tăng lãi suất để chống lại lạm phát kéo dài.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 9/9
|
Giá 16/9
|
16/9 so với 15/9
|
16/9 so với 15/9 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
86,79
|
85,98
|
+0,87
|
+1,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
92,84
|
92,34
|
+0,99
|
+1,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
72.330,00
|
71.320,00
|
-660,00
|
-0,92%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
8,00
|
7,63
|
-0,13
|
-1,69%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
243,31
|
242,60
|
+1,03
|
+0,43%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
357,87
|
322,12
|
+4,87
|
+1,54%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.085,00
|
956,75
|
+3,75
|
+0,39%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.000,00
|
83.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.728,60
|
1.677,70
|
-5,80
|
-0,34%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.845,00
|
7.682,00
|
+35,00
|
+0,46%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,77
|
19,45
|
+0,07
|
+0,36%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
86,30
|
85,80
|
-0,10
|
-0,12%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
884,19
|
905,41
|
-4,25
|
-0,47%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.178,58
|
2.121,72
|
-16,44
|
-0,77%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
356,80
|
352,20
|
+0,55
|
+0,16%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.856,50
|
7.762,00
|
+32,50
|
+0,42%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.286,00
|
2.277,00
|
-30,50
|
-1,32%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.167,50
|
3.153,50
|
-33,00
|
-1,04%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.165,00
|
21.137,00
|
+327,00
|
+1,57%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
685,00
|
678,25
|
+1,00
|
+0,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
869,50
|
854,50
|
-5,25
|
-0,61%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
393,25
|
396,25
|
+0,25
|
+0,06%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,59
|
17,76
|
-0,07
|
-0,39%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.412,25
|
1.454,50
|
+6,00
|
+0,41%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
410,70
|
423,10
|
+1,40
|
+0,33%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
64,82
|
66,22
|
+0,26
|
+0,39%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
771,20
|
787,00
|
-5,50
|
-0,69%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.360,00
|
2.360,00
|
-17,00
|
-0,72%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
228,50
|
215,10
|
-1,30
|
-0,60%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,83
|
17,56
|
-0,32
|
-1,79%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
170,20
|
173,35
|
+3,80
|
+2,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
104,84
|
97,85
|
-1,44
|
-1,45%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
510,80
|
481,20
|
-9,10
|
-1,86%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
130,00
|
132,80
|
-0,10
|
-0,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)