Năng lượng: Giá dầu tăng trong tuần
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu giảm do cổ phiếu của ngân hàng châu Âu giảm và sau khi Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm cho biết việc bổ sung dầu vào Kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược (SPR) của nước này có thể sẽ được thực hiện trong vài năm, làm giảm triển vọng nhu cầu.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 92 US cent, hay 1,2%, xuống 74,99 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 70 US cent, hay 1%, xuống 69,26 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu đều tăng, với dầu Brent tăng 2,8%, trong khi dầu WTI tăng 3,8%. Trong tuần trước, giá dầu Brent và WTI đồng loạt ghi nhận mức sụt giảm mạnh nhất trong nhiều tháng.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Chúng ta đang đi theo những cơn gió ngược của kinh tế vĩ mô và có một mối tương quan mới được tìm thấy giữa dầu với cổ phiếu”.
Nhóm cổ phiếu ngân hàng giảm sâu vào đầu phiên tại châu Âu với Deutsche Bank và UBS Group bị tác động mạnh.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen đã triệu tập cuộc họp bất thường với Hội đồng Giám sát Ổn định Tài chính vào sáng ngày 24/3.
Đồng USD mạnh, với mức tăng 0,6% so với các đồng tiền khác, cũng góp phần tạo ra làn sóng bán tháo.
Nhà Trắng cho biết vào tháng 10 rằng họ sẽ mua lại dầu cho SPR khi giá ở mức hoặc thấp hơn khoảng 67 - 72 USD/thùng. Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm nói với các nhà lập pháp rằng Mỹ sẽ khó tận dụng giá thấp trong năm nay để bổ sung vào kho dự trữ, vốn đang ở mức thấp nhất kể từ năm 1983 sau đợt xả kho do Tổng thống Joe Biden chỉ đạo vào năm ngoái.
Hôm thứ Năm, ông Granholm nói với các nhà lập pháp rằng sẽ khó tận dụng giá thấp trong năm nay để bổ sung vào kho dự trữ, vốn đang ở mức thấp nhất kể từ năm 1983 sau đợt Tổng thống Joe Biden chỉ đạo bán ra vào năm ngoái.
Tuy nhiên, giá dầu đã nhận được một số yếu tố hỗ trợ bởi kỳ vọng nhu cầu mạnh mẽ từ Trung Quốc. Goldman Sachs cho biết nhu cầu hàng hóa đang gia tăng tại quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, với nhu cầu dầu lên tới 16 triệu thùng/ngày.
Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak cho biết việc cắt giảm sản lượng 500.000 thùng/ngày đã được Nga công bố trước đó, từ mức sản lượng 10,2 triệu thùng/ngày trong tháng 2. Điều đó có nghĩa là Nga đặt mục tiêu sản xuất 9,7 triệu thùng/ngày trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 6, mức cắt giảm sản lượng nhỏ hơn nhiều so với Moscow đã chỉ ra trước đó.
Kim loại quý: Giá vàng tăng vào đầu tuần, giảm vào cuối tuần
Giá vàng thế giới giảm trong phiên ngày 24/3, kết thúc một tuàn giao dịch đầy biến động, có lúc vượt ngưỡng quan trọng 2.000 USD, do gia tăng nhu cầu đối với nơi trú ẩn an toàn và đặt cược vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tạm dừng tăng lãi suất. USD tăng 0,5% khiến vàng đắt hơn đối với những người mua bằng các ngoại tệ khác.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.977,01 USD/ounce sau khi có lúc tăng lên 2.002,89 USD; vàng giao sau giảm 0,6% xuống 1.983,8 USD/ounce.
Bart Melek, Bart Melek, trưởng bộ phận chiến lược hàng hóa của công ty tài chính TD Securities, nhận định đồng USD mạnh lên và sự phục hồi của thị trường chứng khoán cùng với tâm lý ưa mạo hiểm là những yếu tố khiến vàng giảm giá. Tuy nhiên, vàng có thể tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ những diễn biến mang tính vĩ mô.
Các biện pháp giải cứu cho các ngân hàng đang gặp khó khăn đã phần nào xoa dịu lo ngại về sự lây lan vào đầu tuần, khiến vàng có xu hướng giảm tuần đầu tiên trong bốn tuần, giảm khoảng 0,5%, mặc dù đã tăng lên mức cao nhất trong một năm trên 2.000 USD vào thứ Hai.
Tuy nhiên, cổ phiếu ngành ngân hàng lại lao dốc vào thứ Sáu, với các ngân hàng lớn ở châu Âu Deutsche Bank và sụt giảm.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thuộc công ty môi giới giao dịch hàng hóa kỳ hạn RJO Futures (Mỹ) nhận định bất kỳ mối lo ngại nào về việc các ngân hàng Mỹ bị thiếu vốn xuất hiện sẽ là yếu tố giúp vàng tăng giá.
Các quan chức Fed cũng nói rằng không có dấu hiệu nào cho thấy căng thẳng tài chính đang trở nên tồi tệ hơn khi nhóm họp trong tuần này, một thực tế cho phép Fed tiếp tục tập trung vào việc giảm lạm phát bằng một đợt tăng lãi suất khác.
Ngân hàng trung ương Mỹ trong tuần này đã tăng lãi suất ¼ điểm như dự kiến, báo hiệu rằng họ sắp tạm dừng tăng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 23,07 USD/ounce, bạch kim giảm 0,7% xuống 977,776 USD/ounce, trong khi palladium giảm 0,7% xuống 1.420,40 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá nickel và quặng sắt giảm, đồng và nhôm tăng
Giá nickel tăng trong phiên cuối tuần do tồn kho tại Trung Quốc giảm, trong khi các nhà đầu cơ tận dụng cơ hội giá kim loại này thấp gần đây để đóng lại các hợp đồng bán khống.
Kết thúc phiên, giá nickel giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 4,5% lên 23,525 USD/tấn. Giá đã giảm 28% kể từ đầu tháng 2, bởi lo lắng về nhu cầu toàn cầu và sản lượng ngày càng tăng tại Indonesia. Dự trữ nickel tại sàn giao dịch Thượng Hải đã giảm 28% trong tuần qua xuống 2.146 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2022.
Giá một số kim loại khác bị áp lực giảm do USD mạnh lên. Giá đồng trên sàn LME giảm 1% xuống 8.939,5 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất 3 tuần ngày thứ hai liên tiếp. Giá đồng đã phục hồi gần 8% trong 6 phiên qua. Giá nhôm tăng 0,7% lên 2.342 USD/tấn và thiếc tăng 1,9% lên 24.800 USD, trong khi kẽm giảm 0,4% xuống 2.895 USD và chì giảm 0,1% xuống 2.124 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á phục hồi do tâm lý nhà đầu tư được cải thiện bởi số liệu cho thấy dự trữ tại các cảng của Trung Quốc giảm trong tuần qua.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên phiên 24/3 tăng 0,29% lên 866,5 CNY (216,43 USD)/tấn, nhưng tính chung cả tuần giảm 4,3% và giảm 4,6% so với tháng trước.
Lo ngại Trung Quốc có thể cắt giảm sản lượng thép thô trong năm nay đã gây áp lực cho thị trường trong tuần này, cùng với nhu cầu thép yếu hơn dự kiến và triển vọng nguồn cung quặng sắt tăng, nhưng tâm lý phục hồi sau số liệu tồn kho tại cảng. Tại Singapore, quặng sắt giao tháng 4 tăng 1,42% lên 119,9 USD/tấn, tính chung cả tuần giảm 4,5%.
Dự trữ quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc giảm tuần thứ 4 liên tiếp với mức giảm tổng cộng 4,3% xuống 136,05 triệu tấn tính tới ngày 24/3, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Giá thép cây tại Thượng Hải giảm 0,44% xuống 4.107 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 0,33%, thép cuộn tăng 1,18% và thép không gỉ tăng 0,56%.
Nông sản: Giá ngũ cốc tăng trong tuần, cao su giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Giá ngũ cốc Mỹ giao dịch trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đồng loạt tăng trong phiên 24/3, dẫn đầu bởi đà tăng của giá lúa mỳ.
Khép phiên này, giá ngô giao tháng 5/2023 tăng 11,25 US cent (1,78%) lên 6,43 USD/bushel; lúa mỳ giao tháng 5/2023 tăng 26,5 US cent (4%) lên 6,885 USD/bushel; đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 8,75 US cent (0,62%) lên 14,2825 USD/bushel.
Giá lúa mỳ được hỗ trợ khi xuất hiện thông tin rằng Chính phủ Nga có thể đề nghị tạm dừng xuất khẩu lúa mì và dầu hạt hướng dương qua hành lang Biển Đen trong những tháng mùa Hè. Tuy nhiên, sau đó phía Nga cho hay không có kế hoạch ngừng xuất lúa mỳ. Thay vào đó, nước này muốn các nhà xuất khẩu đảm bảo giá trả cho nông dân đủ cao để trang trải chi phí sản xuất.
Ngoài ra, các nhà xuất khẩu Mỹ hôm 24/3 đã bán thêm 204.000 tấn ngô cho Trung Quốc, nâng tổng lượng mua của Trung Quốc kể từ giữa tháng 3 lên 2,57 triệu tấn. Giới quan sát cho rằng các khách hàng Trung Quốc tiếp tục có nhu cầu nhập khẩu ngô từ Mỹ chủ yếu do vụ mùa của Brazil sắp kết thúc và nước này chuẩn bị chuyển sang xuất khẩu đậu tương.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 kết thúc phiên giảm 0,07 US cent hay 0,3% xuống 20,82 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 0,2 USD xuống 597,6 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các quỹ giảm vị thế mua ròng lớn trong khi giá năng lượng cũng giảm khiến thị trường đường đi xuống. Tổ chức Unica cho biết khu vực trung nam Brazil đã ép 608 tấn mía trong nửa đầu tháng 3, bổ sung sản lượng đường tổng cộng 16.000 tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 kết thúc tuần tăng 4,95 US cent hay 2,8% lên 1,7925 USD/lb; cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 65 USD hay 3,1% lên 2.189 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường vẫn biến động nhưng về tổng thể thiếu xu hướng rõ ràng.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm trong phiên cuối tuần và ghi nhận tuần giảm giá thứ 3 liên tiếp do tâm lý thị trường vẫn bi quan về triển vọng kinh tế sau khi số liệu cho thấy hoạt động kinh tế của nước này giảm trở lại.
Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 0,1 JPY, hay 0,1%, xuống 204,0 JPY (1,57 USD)/kg. Tính chung cả tuần giá giảm 2,2%. Tại Thượng Hải cao su giao tháng 5 ổn định tại 11,720 CNY/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4 trên nền tảng SICOM của Singapore Exchange tăng 0,2% lên 130,9 US cent/kg.
Số liệu cho thấy hoạt động sản xuất của Nhật Bản tháng 3 giảm, là tháng giảm thứ 5 liên tiếp, bổ sung thêm bằng chứng về nhu cầu toàn cầu đang sụt giảm, trong khi lạm phát tiêu dùng cốt lõi ở Nhật Bản giảm bớt, mặc dù áp lực giá vẫn tiếp tục.
Farah Miller, giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết: "Có vẻ như thị trường đã định giá việc Fed tăng lãi suất 0,25% vào tháng 3 này và giá đã tăng lên vào cuối tuần". "Trong ngắn hạn, tâm lý vẫn giảm." "Hơn nữa, lượng đặt hàng trong tuần này từ người mua vẫn ở mức thấp, đặc biệt là ở Trung Quốc." "Nhìn chung, nếu các yếu tố kinh tế vĩ mô vẫn như hiện tại, điều này có khả năng làm giảm nhu cầu ô tô và lốp xe".
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 17/3
|
Giá 24/3
|
24/3 so với 23/3
|
24/3 so với 23/3 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,68
|
69,26
|
-0,70
|
-1,00%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,78
|
74,99
|
-0,92
|
-1,21%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.450,00
|
59.010,00
|
-770,00
|
-1,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,43
|
2,22
|
+0,06
|
+2,88%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
264,58
|
258,85
|
-1,74
|
-0,67%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
277,29
|
269,52
|
+1,05
|
+0,39%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
812,25
|
765,25
|
-16,00
|
-2,05%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.867,20
|
2.001,70
|
-11,60
|
-0,58%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.070,00
|
8.284,00
|
-31,00
|
-0,37%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,51
|
23,34
|
+0,08
|
+0,36%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
89,60
|
94,80
|
-1,00
|
-1,04%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
964,88
|
984,30
|
-5,25
|
-0,53%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.383,98
|
1.422,00
|
-12,63
|
-0,88%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
403,05
|
407,50
|
-4,85
|
-1,18%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.867,00
|
8.921,50
|
-109,50
|
-1,21%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.313,00
|
2.337,00
|
+11,00
|
+0,47%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.937,00
|
2.891,50
|
-15,50
|
-0,53%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
22.912,00
|
24.830,00
|
+482,00
|
+1,98%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
617,25
|
643,00
|
+11,25
|
+1,78%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
679,25
|
688,50
|
+26,50
|
+4,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
346,75
|
368,50
|
+7,00
|
+1,94%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,35
|
17,88
|
+0,32
|
+1,82%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.507,00
|
1.428,25
|
+8,75
|
+0,62%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
485,90
|
445,10
|
+6,80
|
+1,55%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
56,61
|
53,27
|
+1,10
|
+2,11%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
777,80
|
743,40
|
+8,20
|
+1,12%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.704,00
|
2.884,00
|
+16,00
|
+0,56%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
177,80
|
179,25
|
+4,95
|
+2,84%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
21,16
|
20,82
|
-0,07
|
-0,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
240,80
|
253,95
|
+10,00
|
+4,10%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,18
|
76,54
|
-1,04
|
-1,34%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
414,30
|
413,50
|
+2,30
|
+0,56%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
135,30
|
133,40
|
+0,10
|
+0,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)