Trên thị trường năng lượng, giá dầu thế giới duy trì ở mức ổn định sau phiên giao dịch đầy biến động giữa bối cảnh lo ngại về nguồn cung thắt chặt đã bù đắp cho những đồn đoán về nguy cơ suy thoái và các hạn chế nhằm kiểm soát dịch COVID-19 ở Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 14 US cent lên 113,56 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 52 US cent xuống 109,77 USD/thùng.
Năm nay, giá dầu đã tăng mạnh, với dầu Brent chạm mốc 139 USD/thùng vào tháng 3/2022, mức cao nhất kể từ năm 2008, sau khi cuộc xung đột Nga – Ukraine làm tăng thêm lo ngại về nguồn cung.
Đầu phiên, giá dầu nhận được hỗ trợ khi Liên minh châu Âu (EU) tiến gần hơn đến thỏa thuận cấm nhập khẩu dầu Nga”, Bộ trưởng Kinh tế Đức cho biết, một lệnh cấm vận như vậy có thể đạt được đồng thuận “trong vài ngày”. Tuy nhiên, giá dầu WTI quay đầu giảm nhẹ sau khi Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm cho biết Tổng thống Mỹ Joe Biden không loại trừ sự dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu để xoa dịu đà tăng vọt giá nhiên liệu trong nước.
Yếu tố khác gây áp lực lên giá dầu là lo ngại về mối đe dọa đối với nền kinh tế toàn cầu, một chủ đề chính của diễn đàn kinh tế ở Davos (Thụy Sỹ) trong tuần này.
Hoạt động đi lại trong thời gian cuối tuần nghỉ lễ Tưởng niệm (Memorial Day) sắp tới tại Mỹ dự kiến sẽ nhộn nhịp nhất trong 2 năm khi ngày càng nhiều người lái xe lên đường và rũ bỏ lo ngại về phong tỏa xã hội liên quan tới dịch COVID-19 mặc dù giá xăng tăng.
Trong khi đó, Bắc Kinh (Trung Quốc) đang đẩy mạnh nỗ lực kiểm soát dịch bệnh để chấm dứt đợt bùng phát COVID-19 trong khi lệnh phong tỏa của Thượng Hải sẽ được dỡ bỏ sau hơn 1 tuần nữa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 2 tuần, do đồng USD suy yếu và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.865,07 USD/ounce, trong phiên có lúc giá tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 9/5/2022, 1.868,69 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6/2022 tăng gần 1% lên 1.865,4 USD/ounce.
David Meger, Giám đốc kinh doanh vàng tổ chức tài chính High Ridge Futures (Mỹ) cho biết đồng USD yếu đi và lợi suất trái phiếu Mỹ rời khởi mức cao gần đây đã hỗ trợ cho giá vàng.
Đồng bạc xanh đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng một tháng, trong khi lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm do sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán đã hồi sinh nhu cầu tài sản an toàn.
Các nhà phân tích của ngân hàng đầu tư TD Securities cho biết các nhà giao dịch vàng đang ngày càng hoài nghi về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liệu có sẵn sàng ứng phó với một cuộc suy thoái không trong bối cảnh những lo ngại kinh tế ngày càng gia tăng đang hỗ trợ cho thị trường vàng. Kim loại quý này vốn được xem là kênh đầu tư an toàn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và đối phó với lạm phát, tuy nhiên lãi suất tăng sẽ tác động đến kim loại quý không sinh lời này.
Theo Chủ tịch chi nhánh Fed tại Atlanta, Raphael Bostic, nếu Fed tiến hành tăng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm trong tháng Sáu và tháng 7/2022 như Chủ tịch Fed Jerome Powell đã báo hiệu, thì việc tạm dừng tăng lãi suất tại cuộc họp vào tháng 9/2022 là điều hợp lý.
Ông Meger cho hay thị trường vẫn đang hoài nghi việc tăng lãi suất có đủ để ngăn chặn sức ép lạm phát trong ngắn hạn hay không.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,5% lên 22,09 USD/ounce; giá palladium tăng 0,4% lên 2.001,71 USD/ounce, trong hi giá bạch kim giảm 0,2% xuống 956,55 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại đã kéo thị trường chứng khoán giảm. Tuy nhiên, đồng USD suy yếu đã hạn chế đà suy giảm giá đồng.
Giá đồng trên sàn London giảm 0,9% xuống 9.467 USD/tấn. Giá đồng đã chạm mức thấp nhất 7 tháng (8.938 USD/tấn) hôm 12/5/2022, sau đó hồi phục trở lại do đồng USD giảm từ mức cao nhất 20 năm, khiến kim loại mua bằng đồng USD rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá nhôm phiên này cũng giảm 1,9% xuống 2.901 USD/tấn, kẽm giảm 0,3% xuống 3.776,50 USD, nickel giảm 4,4% xuống 26.500 USD, chì giảm 1% xuống 2.170,50 USD và thiếc giảm 1,2% ở 34.200 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên (Trung Quốc), kết thúc phiên n ày giảm 3,5% xuống 831 CNY/tấn, sau khi tăng gần 7% trong phiên trước đó. Quắng sắt 62% sắt nhập khẩu vào Trung Quốc cũng tăng 6,5 USD lên 135 USD/tấn.
Giá thép thanh vằn trên sàn Thượng Hải phiên này giảm 3,6% xuống 4.468 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 3,4% xuống 4.609 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2022 giảm 1,7% xuống 18.440 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giảm 1,8% xuống mức thấp nhất 6 tuần do dự báo sản lượng của nước này sẽ bội thu. Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2022 giảm 14-1/2 US cent xuống 7,71-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 7,62 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 11/4/2022.
Giá lúa mì kỳ hạn cũng giảm mạnh sau khi Nhà phân tích APK-Inform nâng dự báo về sản lượng và xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine vụ 2022/23 vì vụ đông tốt hơn dự kiến. Theo đó, giá lúa mì mềm đỏ, vụ đông kỳ hạn tháng 7/2022 giảm 35-1/4 US cent xuống 11,54-3/4 USD/bushel – phiên giảm thứ 4 liên tiếp trong 5 phiên.
Giá đậu tương kỳ hạn kết thúc phiên ổn định trong bối cảnh thị trường lo ngại rằng việc trồng vẫn chậm ở các khu vực sản xuất phía Bắc. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 6 US cent lên 16,93 USD/bushel.
Giá đường thô phiên này biến động nhẹ vào lúc kết thúc phhieen, sau khi tăng vào lúc đầu phiên giao dịch. Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 19,75 US cent/lb. Giá giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn London tăng 4,5 USD tương đương 0,8% lên 556,5 USD/tấn. Ấn Độ đã hạn chế xuất khẩu đường lần đầu tiên trong vòng 6 năm nhằm ngăn chặn giá nội địa tăng cao, có khả năng giới hạn xuất khẩu trong năm nay ở mức 10 triệu tấn. Tuy nhiên, sau đó, nước này đã nới lỏng lệnh cấm.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 7/2022 giảm 2,1 US cent, tương đương 1%, xuống 2,1365 USD/lb – thấp nhất kể từ giữa tháng 5/2022 (2,11 USD/lb); robusta kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn London tăng 2 USD tương đương 1% lên 2.043 USD/tấn.
Lo ngại về nguy cơ băng giá ở nhà sản xuất hàng đầu Brazil đã giảm bớt, khiến arabica chịu áp lực mới do lo ngại rằng chiến tranh Nga-Ukraine và lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng toàn cầu, khieens nhu cầu cà phê giảm theo.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng do nguồn cung thắt chặt. Theo đó, cao su kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn Osaka tăng 1,8 JPY tương đương 0,7% lên 246,6 JPY (1,94 USD)/kg.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Thượng Hải không thay đổi ở mức 13.020 CNY (1.952,17 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất (13.200 CNY/tấn) kể từ ngày 22/4/2022. Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên nền tảng SICOM của Sàn giao dịch Singapore giảm 0,9% xuống 161,4 US cent/kg.
Truyền hình nhà nước dẫn lời nội các cho biết Trung Quốc sẽ mở rộng các khoản giảm thuế, hoãn thanh toán an sinh xã hội và hoàn trả các khoản vay, triển khai các dự án đầu tư mới và thực hiện các bước khác để hỗ trợ nền kinh tế.
Trong khi đó, hãng Toyota Motor Corp thông báo sẽ cắt giảm kế hoạch sản xuất trê toàn cầu, với mức giảm khoảng 100.000 xe xuống còn khoảng 850.000 xe vào tháng 6 do tình trạng thiếu chất bán dẫn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
110,92
|
+1,15
|
+1,05%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
114,74
|
+1,18
|
+1,04%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
77.850,00
|
+1.300,00
|
+1,70%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
8,90
|
+0,10
|
+1,14%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
384,03
|
+2,93
|
+0,77%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
380,12
|
+1,94
|
+0,51%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.095,00
|
+1,75
|
+0,16%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
82.590,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.868,00
|
-3,40
|
-0,18%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.572,00
|
+1,00
|
+0,01%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,09
|
+0,03
|
+0,12%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
90,50
|
+0,60
|
+0,67%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
957,60
|
+0,75
|
+0,08%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.008,20
|
-1,20
|
-0,06%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
430,85
|
+0,35
|
+0,08%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.453,50
|
-94,50
|
-0,99%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.901,50
|
-54,50
|
-1,84%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.790,50
|
+4,50
|
+0,12%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
34.110,00
|
-504,00
|
-1,46%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
768,00
|
-3,75
|
-0,49%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
1.152,75
|
-2,00
|
-0,17%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
670,25
|
-4,00
|
-0,59%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,15
|
-0,01
|
-0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.694,75
|
+1,75
|
+0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
428,00
|
+0,90
|
+0,21%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
80,04
|
-0,08
|
-0,10%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
1.059,30
|
-6,90
|
-0,65%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.441,00
|
-10,00
|
-0,41%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
213,65
|
-2,10
|
-0,97%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,75
|
-0,02
|
-0,10%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
178,35
|
+1,75
|
+0,99%
|
Bông
|
US cent/lb
|
122,72
|
-1,06
|
-0,86%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
660,00
|
+8,10
|
+1,24%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
163,30
|
-0,20
|
-0,12%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)