Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm phiên thứ 2 liên tiếp sau dữ liệu cho thấy các kho dự trữ dầu thô tại Mỹ tăng nhiều hơn dự kiến, ngay cả khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) có kế hoạch duy trì cách tiếp cận thận trọng để bổ sung nguồn cung cho thị trường.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent biển Bắc giảm 45 US cent xuống 78,64 USD/thùng, trong phiên có lúc giá chạm mức 80 USD/thùng ngày 28/9. Giá dầu thô ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) phiên này cũng giảm 46 US cent (0,6%) xuống 74,83 USD/thùng.
Dự trữ dầu của Mỹ đã tăng khoảng 4,6 triệu thùng trong tuần trước, vượt dự báo của thị trường trong bối cảnh các cơ sở ngoài khơi – bị đóng cửa do ảnh hưởng của hai cơn bão “quét” qua khu vực Vịnh Mexico của Mỹ - đã nối lại hoạt động sản xuất, giúp sản lượng phục hồi. Đồng USD mạnh lên, chạm mức cao nhất của một năm, cũng gây áp lực giảm giá dầu trong hiên này. Sản lượng dầu của Mỹ tăng lên 11,1 triệu thùng/ngày, gần bằng với mức sản xuất trước khi cơn bão Ida ập đến khoảng một tháng trước.
Tuy nhiên, xu hướng chung của giá dầu là đang tăng khi các nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và nhu cầu nhiên liệu tăng lên. OPEC nhận định nhu cầu dầu dự báo sẽ tăng mạnh trong vài năm tới. Ngày 28/9, OPEC cảnh báo rằng thế giới cần tiếp tục đầu tư vào sản xuất để ngăn chặn sự gián đoạn nguồn cung ngay cả khi tổ chức này chuyển sang các dạng năng lượng ít gây ô nhiễm hơn.
OPEC và các nước sản xuất dầu liên minh, hay còn gọi là OPEC+, có khả năng sẽ vẫn tuân thủ thỏa thuận hiện có về việc tăng sản lượng thêm 400.000 thùng/ngày trong tháng 11/2021 khi nhóm này họp vào tuần tới, bất chấp sức ép cần thêm nguồn cung từ người tiêu dùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên bởi dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể sớm bắt đầu thu hẹp chính sách nới lỏng tiền tệ.
Theo đó, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.722,50 USD/ounce vào cuối phiên, trong phiên có lúc giá giảm xuống 1.720,49 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 10/8. Trong khi đó, giá vàng giao dịch kỳ hạn của Mỹ giảm 0,8% xuống đóng cửa ở mức 1.722,9 USD/ounce.
Nhà phân tích cấp cao của công ty kinh doanh kim loại quý Kitco Metals, có trụ sở tại Montreal (Canada), Jim Wyckoff , nhận định đà tăng của "đồng bạc xanh" đang hạn chế đà tăng của vàng và khiến kim loại này trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Đồng USD đã tăng lên mức cao nhất trong một năm so với các đồng tiền khác, dù thế bế tắc tại Washington về mức trần nợ công có nguy cơ khiến Chính phủ Mỹ phải đóng cửa. Theo nhà phân tích Wyckoff, nếu chính phủ phải đóng cửa, vàng có thể tăng giá, nhờ vị thế là nơi trú ẩn an toàn trong những giai đoạn bất ổn.
Nhà phân tích Lukman Otunuga của sàn giao dịch trực tuyến FXTM có trụ sở tại Cyprus đánh giá dự đoán Fed tăng lãi suất sớm hơn dự kiến có thể gây tổn thất nhiều hơn đối với giá vàng. Chủ tịch chi nhánh Fed tại Philadelphia Patrick Harker gần đây cho rằng sẽ sớm đến thời điểm Fed bắt đầu thu hẹp quy mô chương trình mua trái phiếu.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do khi cuộc khủng hoảng cung cấp điện ở Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới, lan rộng, khiến hàng loạt nhà máy phải đóng cửa và gây nghi ngờ về triển vọng nhu cầu. Phiên này, chứng khoán Trung Quốc sụt giảm trong khi đồng USD suy yếu.
Cả hai ngân hàng Goldman Sachs và Nomura điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm nay. Ở những nơi khác trên thế giới cũng xuất hiện những nghi ngờ về sự phục hồi kinh tế toàn cầu khi các ngân hàng trung ương chuẩn bị giảm các chương trình kích thích và chính phủ Mỹ có nguy cơ rơi vào một cuộc khủng hoảng nợ.
Giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,9% xuống 9.189,50 USD/tấn lúc đóng cửa phiên giao dịch vừa qua, sau khi giảm 1% ở phiên liền trước.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên, giao tháng 1 tăng 2,1% lên 694 CNY/tấn, quặng sắt nhập khẩu hàm lượng 62% giao ngay tăng 1 USD lên 118,5 USD/tấn.
Giá thép không gỉ của Trung Quốc phiên này giảm hơn 3% trong phiên vừa qua, là phiên thứ 4 liên tiếp giảm do hoạt động sản xuất chậm lại trong bối cảnh thiếu cung điện ngày càng trầm trọng. Cụ thể, thép không gỉ hợp đồng kỳ hạn tháng 11 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải kết thúc phiên giảm 1,6% xuống 19.690 CNY (3.045,06 USD)/tấn. Trước đó, trong cùng phiên, có lúc giá giảm 3,1% xuống 19.405 CNY/tấn.
Các sản phẩm thép khác giao dịch trên sàn Thượng Hải tăng nhẹ trong phiên này. Cụ thể, thép thanh vằn dùng làm vật liệu xây dựng tăng 1,1% lên 5.657 CNY (874,86 USD)/tấn, thép cuộn cán nóng được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất tăng 1,3% lên 5.697 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ hồi phục trong phiên vừa qua sau khi giảm ở phiên trước đó do các nhà giao dịch điều chỉnh giá cả trước khi Chính phủ Mỹ công bố các số liệu quan trọng về dự trữ nông sản của nước này. Theo đó, giá ngô kỳ hạn tháng 12 trên sàn Chicago tăng 6-1/2 cent lên 5,39 USD/bushel, nhưng vẫn nằm trong phạm vi giao dịch ở phiên liền trước.
Giá đậu tương và lúa mì kỳ Mỹ phiên này cũng tăng. Tuy nhiên, giá cả 3 loại nông sản trên đều bị hạn chế mức tăng do USD mạnh lên. Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 6-3/4 cent lên 12,83-3/4 USD/bushel, trong khi lúa mì kỳ hạn tháng 12 tăng 3-3/4 cent lên 7,10-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,04 cent, tương đương 0,2%, xuống 18,94 cent/lb; đường trắng giao tháng 12 giảm 4,80 USD, tương đương 0,9%, ở mức 505,00 USD/tấn.
Giá cà phê arabica giảm khỏi mức cao nhất trong vòng 2 tháng do dự báo sẽ có mưa nhiều ở Brazil trong vài ngày tới; cà phê robusta giao tháng 11 phiên này cũng giảm 44 USD, tương đương 2,0%, xuống 2.116 USD/tấn.
Arabica kỳ hạn tháng 12 phiên này giảm 5,2 cent, tương đương 2,6%, xuống 1,934 USD/lb, sau khi chạm mức cao nhất trong hai tháng là 1,9945 USD lúc đầu phiên giao dịch cùng ngày. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong chín tháng đầu năm nay dự kiến sẽ giảm 4,2% so với một năm trước đó xuống 1,2 triệu tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản phiên này giảm khỏi mức cao nhất 3 tuần do lo ngại kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại do khủng hoảng điện và khủng hoảng nợEvergrande. Trung Quốc là nước tiêu thụ cao su hàng đầu thế giới.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 3 trên sàn Osakagiảm 1,3 yên xuống 207,6 yên/kg.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 35 CNY lên 13.815 CNY/tấn. Cao su kỳ hạn giao sau 1 tháng trên sàn giao dịch SICOM của Singapore tăng 0,2% lên 166,4 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
74,67
|
-0,16
|
-0,21%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
78,64
|
-0,45
|
-0,57%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
47.910,00
|
+580,00
|
+1,23%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,38
|
-0,10
|
-1,84%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
223,00
|
+0,07
|
+0,03%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
231,80
|
+1,05
|
+0,46%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
666,75
|
+2,50
|
+0,38%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
65.900,00
|
-1.530,00
|
-2,27%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.728,30
|
+5,40
|
+0,31%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.210,00
|
-13,00
|
-0,21%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,56
|
+0,07
|
+0,33%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
77,90
|
-2,80
|
-3,47%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
958,03
|
+3,70
|
+0,39%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.863,84
|
+2,42
|
+0,13%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
418,05
|
-1,85
|
-0,44%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.155,00
|
-114,00
|
-1,23%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.911,50
|
-33,00
|
-1,12%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.054,00
|
-25,00
|
-0,81%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
35.450,00
|
-353,00
|
-0,99%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
539,00
|
+6,50
|
+1,22%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
710,25
|
+3,75
|
+0,53%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
584,25
|
+1,00
|
+0,17%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,81
|
-0,12
|
-0,90%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.283,75
|
+6,75
|
+0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
341,20
|
+1,70
|
+0,50%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
57,83
|
+0,37
|
+0,64%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
894,20
|
+8,50
|
+0,96%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.589,00
|
+34,00
|
+1,33%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
193,40
|
-5,20
|
-2,62%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,72
|
-0,12
|
-0,60%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
134,80
|
+1,30
|
+0,97%
|
Bông
|
US cent/lb
|
101,94
|
+1,91
|
+1,91%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
606,50
|
-9,20
|
-1,49%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
163,70
|
-0,60
|
-0,37%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,21
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)