Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 57,21 tỷ USD
Với các biện pháp tích cực và đồng bộ nhằm tháo gỡ khó khăn để hỗ trợ sản xuất trong nước, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu được triển khai mạnh mẽ nên hoạt động xuất nhập khẩu trong tháng 7 đã có những tín hiệu tích cực khi tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 57,21 tỷ USD, tăng 2,5% so với tháng trước và giảm 6,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, tính chung 7 tháng năm 2023, do những khó khăn chung của thị trường thế giới từ đầu năm nên tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 374,23 tỷ USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 10,6%; nhập khẩu giảm 17,1%.
Do nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu nên cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 7 tiếp tục xuất siêu khoảng 2,15 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong 7 tháng năm 2023 là 15,23 tỷ USD, gấp hơn 11 lần so với mức xuất siêu của cùng kỳ năm trước (xuất siêu 1,34 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,58 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 27,81 tỷ USD.
Công nghiệp chế biến tạo động lực cho xuất khẩu khởi sắc
Trong tháng 7, hoạt động xuất khẩu hàng hóa tiếp tục có những tín hiệu tích cực khi tăng 0,8% so với tháng trước, ước đạt 29,68 tỷ USD, là tháng có kim ngạch xuất khẩu cao thứ hai kể từ tháng 11/2022 đến nay (chỉ thấp hơn kim ngạch xuất khẩu của tháng 3/2023, đạt 29,71 tỷ USD).
Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,76 tỷ USD, giảm 1,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 21,92 tỷ USD, tăng 1,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7 giảm 3,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 4,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 3,2%.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, động lực chính cho sự khởi sắc của hoạt động xuất khẩu hàng hóa trong tháng 7 đến từ nhóm hàng công nghiệp chế biến với kim ngạch tăng 1,1% so với tháng trước, ước đạt 25,12 tỷ USD, chiếm 84,65% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chính có xu hướng tăng như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 5,2 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước; dệt may đạt 3,2 tỷ USD, tăng 4,6%; giày dép các loại đạt 1,85 tỷ USD, tăng 4,8%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 5,5%; đặc biệt phương tiện vận tải và phụ tùng tăng tới 19,4%;... Tuy nhiên, điện thoại các loại và linh kiện sau khi được đẩy mạnh xuất khẩu vào tháng trước đã giảm trở lại 10,2% trong tháng này, ước đạt 3,6 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu và khoáng sản trong tháng 7/2023 ước đạt 369 triệu USD, tăng 8,7% so với tháng trước chủ yếu là do kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng 67,2%, ước đạt 224 triệu USD và xuất khẩu quặng và khoáng sản khác tăng 455%, ước đạt 55 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản trong tháng 7/2023 chững lại so với tháng trước (giảm 0,9%), nhưng vẫn tăng tới 13,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng này, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng 4,1% so với tháng trước, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 45,7%, cao su tăng 38,4%, trong khi rau quả giảm 16,9%, hạt điều giảm 8,4%, hạt tiêu giảm 23,1%, gạo giảm 4,3%... So với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng vẫn đạt mức tăng trưởng cao như: rau quả tăng 122,5%, hạt điều tăng 15%, cà phê tăng 37,4%, gạo tăng 14,4%...
Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 194,73 tỷ USD, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 51,5 tỷ USD, giảm 10,2%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 143,23 tỷ USD, giảm 10,8%, chiếm 73,6%.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu trong 7 tháng năm 2023: nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 1,23%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 164,8 tỷ USD, chiếm 84,65%; nhóm hàng nông sản, lâm, thủy sản ước đạt 18,17 tỷ USD, chiếm 9,33%. Nhìn chung so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu hầu hết nhóm hàng đều giảm: công nghiệp chế biến giảm 11,9%; nhiên liệu và khoáng sản giảm 16,4%; nông, lâm, thủy sản giảm 0,2%. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực sụt giảm ở mức hai con số như: điện thoại các loại và linh kiện giảm 18,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác giảm 10,4%; hàng dệt may giảm 15,1%; giày dép các loại giảm 17,1%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 26,2%; thủy sản giảm 25,4%; ca su giảm 18%... Ngược lại, xuất khẩu các mặt hàng nông sản diễn biến khả quan với kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng 68,1%, ước đạt 3,23 tỷ USD; gạo tăng 29,6%, ước đạt 2,58 tỷ USD; cà phê tăng 6%.
Trong 7 tháng năm 2023, có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 57,6%).
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2023: Nhìn chung các ngành hàng đều gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu do tổng cầu trên thế giới giảm, nhất là đối với hàng hoá tiêu dùng không thiết yếu, do vậy kim ngạch xuất khẩu trong 7 tháng năm 2023 của nước ta sang hầu hết các thị trường chủ lực đều giảm, tuy nhiên mức độ tác động đến xuất khẩu từng ngành hàng có sự khác nhau.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 52,4 tỷ USD, giảm 21,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường lớn khác cũng giảm như: thị trường EU ước đạt 25 tỷ USD, giảm 9,9%; ASEAN ước đạt 18,6 tỷ USD, giảm 9,6%; Hàn Quốc giảm 8,8%, ước đạt 12,9 tỷ USD; Nhật Bản ước đạt 13,03 tỷ USD, giảm 3,5%. Riêng thị trường Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta xuất khẩu với kim ngạch ước đạt 31,57 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
35 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD
Nhu cầu hàng hóa của thế giới giảm cũng ảnh hưởng đến kim ngạch nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu phục vụ sản xuất đơn hàng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, nhờ những tín hiệu tích cực trong sản xuất công nghiệp và xuất khẩu trong tháng 7 nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7/2023 ước đạt 27,53 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,73 tỷ USD, tăng 14,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,8 tỷ USD, giảm 1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7 giảm 9,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 0,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,4%.
Tính chung 7 tháng năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 179,5 tỷ USD, giảm 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 64,1 tỷ USD, giảm 16,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 115,4 tỷ USD, giảm 17,7%.
Trong 7 tháng năm 2023 có 35 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 88,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 37,9%).
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu:
Do những khó khăn về đơn hàng xuất khẩu nên nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng cần nhập khẩu (chủ yếu là nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước) trong 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 158,26 tỷ USD, giảm 17,6% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 88% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu. Trong đó, các nhóm hàng chủ lực và là đầu vào quan trọng phục vụ các ngành hàng xuất khẩu như điện thoại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; nguyên phụ liệu dệt may, da giày… đều giảm ở mức hai con số như: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác giảm 14,6%; vải các loại giảm 18,6%; thép các loại giảm 30,6%; cao su các loại giảm 39,3%; bông các loại giảm 21%; hóa chất giảm 25,4%; phân bón giảm 24,5%... Đặc biệt, kim ngạch nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện tiếp tục giảm mạnh khi chỉ đạt 4 tỷ USD, giảm 66,3%.
Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm 12,8% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 10,94 tỷ USD. Những mặt hàng giảm mạnh gồm: Phế liệu sắt thép (giảm 25,9%), đá quý, kim loại quý và sản phẩm (giảm 28%), linh kiện phụ tùng ô tô dưới 9 chỗ (giảm 28%), hàng điện gia dụng và linh kiện (giảm 19%)... Tuy nhiên, kim ngạch tăng ở một số ít mặt hàng gồm rau quả (tăng 2,6%), ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ (tăng 18,5%).
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa trong 7 tháng năm 2023: Do những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa, nhất là nguyên phụ liệu của Việt Nam từ hầu hết các thị trường đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 58,59 tỷ USD, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 28,52 tỷ USD, giảm 25,3%; thị trường ASEAN đạt 23,56 tỷ USD, giảm 16,6%; Nhật Bản đạt 12,11 tỷ USD, giảm 12,6%; thị trường EU đạt 8,56 tỷ USD, giảm 5,9%; Hoa Kỳ đạt 8,1 tỷ USD, giảm 6,4%.