menu search
Đóng menu
Đóng

Giải mã tình trạng “tạm nhập tái xuất” trong ngành cao su

15:47 08/12/2011
 

Trong những năm qua, tình trạng tạm nhập tái xuất của ngành cao su đã bị mang ra mổ xẻ rất nhiều. Có ý kiến cho rằng Việt Nam có đủ khả năng xây dựng nguồn nguyên liệu tại chỗ nên thiếu nguyên liệu là do quy hoạch và phát triển chưa đúng mức, còn doanh nghiệp vẫn “ăn xổi ở thì” khi chấp nhận tình trạng tạm nhập tái xuất. 

Thế nên việc tạm nhập tái xuất trong ngành cao su vẫn được coi là “thủ phạm” khiến cho ngành này tuy xuất khẩu lớn nhưng chưa thực sự là ngành tạo ra được đóng góp lớn cho nền kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho người dân. Tuy vậy theo người trong cuộc thì điều này vẫn có những điểm tốt, có đóng góp cho ngành cao su Việt Nam.

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) thì lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây có mức cao hơn nhờ nguồn cao su tạm nhập tái xuất. Năm 2010, Việt Nam nhập khoảng 127.100 tấn, trị giá khoảng 300 đến 400 triệu USD, trong đó nhiều nhất là nhập từ Cambodia (47%), kế đến Thái Lan (12,7%), đến Myanmar, Malaysia, Indonesia và các thị trường khác. Chủng loại được nhập nhiều nhất cao su khối TSR 10 (18,4%) và TSR 3L/L, tiếp đến RSS (15,7%), TSR 20 cũng được nhập với khối lượng khá, chiếm 8,3 %; trong đó, khoảng 60% để tái xuất và 40% để tiêu thụ trong nước.

Cũng theo VRA, nhập nhiều những chủng loại cao su trên là do phần lớn những chủng loại này trong nước ít sản xuất. Việt Nam đang sản xuất nhiều chủng loại cao su SVR 3L, là sản phẩm chất lượng cao đòi hỏi nguồn nguyên liệu mủ nước phải được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng từ vườn cây đến nhà máy và được sơ chế ngay. Điều kiện này phù hợp với tình hình ngành cao su ở Việt Nam hiện nay do chủ lực trong sản xuất vẫn là các công ty quốc doanh có vườn cây, nhà máy với quy mô lớn, tập trung nên quản lý chặt chẽ quy trình sản xuất và chất lượng. Tuy nhiên nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu cao su chất lượng cao chưa nhiều vì ngành lốp xe chủ yếu tiêu thụ đến 70% sản lượng cao su thế giới chỉ ở chủng loại cấp thấp hơn (tương đương SVR 20) và được sản xuất từ mủ đông để lưu trữ nhiều ngày.

Tổng thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam thừa nhận một thực tế là các doanh nghiệp cao su Việt Nam vẫn nhập khẩu những nguồn nguyên liệu rồi tái xuất khẩu đi các nước khác. Tuy vẫn trong tình trạng tạm nhập tái xuất nhưng các doanh nghiệp cao su vẫn có lợi nhuận. Không chỉ Việt Nam mà ở một số nước khác, các doanh nghiệp cao su cũng vẫn trong tình trạng tạm nhập tái xuất. Đơn cử như Malaysia là nước đứng đầu trong xuất khẩu cao su nhưng cũng là nước đứng 7 trong việc nhập khẩu nguồn nguyên liệu này.

Được biết, thuế nhập khẩu cao su hiện nay là 30%, doanh nghiệp vẫn chấp nhận tạm nhập tái xuất bởi chi phí đầu tư ban đầu không cao, dễ dàng sinh lợi nhuận trước mắt. Điều đó lý giải vì sao không chỉ các doanh nghiệp lớn với lượng xuất khẩu cao ra nước ngoài mà ngay cả các doanh nghiệp nhỏ cũng tận thu trong việc tạm nhập tái xuất để khi có hợp đồng, có thị trường nhập khẩu sẽ có hàng đáp ứng. Song theo các chuyên gia, điều này cho thấy tuy Việt Nam là một trong những nước sản xuất , xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới nhưng ngành Cao su vẫn chưa xây dựng được nguồn nguyên liệu vền vững, đáp ứng đủ nhu cầu cho các công ty sản xuất trong nước. Nếu cứ chấp nhận tình trạng “tạm nhập tái xuất” và coi đó là giải pháp thì các doanh nghiệp cao su rất dễ gặp rủi ro khi quá phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài bởi giá và nguồn nguyên liệu có thể biến động rất khó kiểm soát.

Điều đáng nói là tuy có lượng nhập khẩu lớn từ nguồn nguyên liệu các nước khác nhưng những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Trung Quốc, Hoa Kỳ lại cần những chủng loại cao su mà ngành sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Cụ thể, thị trường Trung Quốc cần nhiều cao su khối (chủ yếu là chủng loại TSR 20) nhằm phục vụ cho ngành sản xuất lốp xe ô tô. Điều này cũng lý giải, chủng loại cao su được Việt Nam tạm nhập nhiều nhất trong 5 năm trở lại đây là cao su khối (chiếm 55,5%) và có xu hướng nhập ngày càng tăng trong những năm tới.

Các chuyên gia cho rằng nếu cứ chấp nhận tạm nhập tái xuất sẽ là hạn chế lớn của ngành cao su Việt Nam. Hấp tấp kiếm lời trong ngắn hạn đã đưa ngành Cao su từ chỗ có thể chủ động về thị phần, giá cả trở thành một trong những ngành phải chấp nhận tạm nhập, tái xuất. Quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch nhà máy sơ chế, tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chất lượng…là những gì mà ngành Cao su Việt Nam cần phải làm trong thời gian tới.

Để hạn chế tình trạng này, doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tìm thêm những thị trường tiêu thụ chủng loại cao su chất lượng cao qua những hoạt động xúc tiến thương mại. Đồng thời tăng cường sản xuất những chủng loại đáp ứng được thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trong vài năm tới, sản lượng cao su Việt Nam sẽ tăng gấp đôi từ diện tích được phát triển trong nước và đầu tư phát triển ở Lào, Campuchia. Do vậy, rất cần nghiên cứu thị trường chuyên sâu để chọn những sản phẩm phù hợp với thị trường khi thành lập các nhà máy mới sơ chế cao su.

Nguồn: http://vccinews.vn

Nguồn:Vinanet