menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 12/3: Dầu WTI, vàng và cà phê tiếp tục giảm giá

09:34 12/03/2015

Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 11/3 (kết thúc vào rạng sáng 12/3 giờ VN), giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tiếp tục giảm xuống dưới 50 USD, vàng cũng giảm bởi USD tiếp tục đà tăng giá so với các tiền tệ chủ chốt, và cà phê cũng giảm.

(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 11/3 (kết thúc vào rạng sáng 12/3 giờ VN), giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tiếp tục giảm xuống dưới 50 USD, vàng cũng giảm bởi USD tiếp tục đà tăng giá so với các tiền tệ chủ chốt, và cà phê cũng giảm.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu Mỹ tiếp tục giảm do tồn kho tăng lên mức cao kỷ lục mới.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex New York giảm 12 cent, tương đương 0,2%, xuống 48,17 USD/thùng, thấp nhất kể từ 26/2.

Nguồn cung dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào 6/3 tăng 4,5 triệu thùng lên 448,9 triệu thùng, ghi nhận kỷ lục mới, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết hôm thứ Tư 11/3.

Lo ngại tiếp tục tăng khi sức chứa tại nhiều khu vực tại Mỹ gần đạt công suất tối đa, theo giới thương nhân. Nếu các bể chứa đạt công suất tối đa, giá dầu sẽ giảm mạnh do các nhà sản xuất phải tìm nơi để chứa dầu.

Kyle Cooper, nhà phân tích tại IAF Advisors ở Houston, cho biết, dầu tồn kho quá lớn và vấn đề này sẽ chưa thể thay đổi một sớm một chiều. Nếu bạn là nhà đầu cơ giá lên, bạn nên bắt đầu lo lắng.

Tồn kho dầu thô tại Cushing, Oklahoma, trong tuần kết thúc vào 6/3 tăng 2,3 triệu thùng lên 50 triệu thùng, lần đầu tiên kể từ 31/5/2013, trong khi đó công suất chứa tối đa của Cushing là 70,8 triệu thùng, theo EIA.

Trái với thị trường New York, giá dầu Brent tại London phiên vừa qua tăng khá mạnh 2% bởi giới đầu tư đặt cược chênh lệch giá Brent/WTI sẽ nới rộng.

Giá dầu thô Brent – tham khảo cho thị trường dầu toàn cầu, kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 1,15 USD, tương đương 2%, lên 57,54 USD/thùng, dứt mạch giảm 5 phiên liên tiếp.

Chênh lệch giữa giá dầu Brent và WTI tăng lên 9,37 USD/thùng từ 8,1 USD/thùng hôm thứ Ba, và ghi nhận mức chênh lệch lớn nhất kể từ thứ Sáu tuần trước.

Phiên 11/3, giới thương nhân bán hợp đồng dầu WTI và mua vào dầu Brent khi đặt cược chênh lệch giá Brent/WTI sẽ tiếp tục tăng khi dự trữ dầu của Mỹ lập đỉnh mới.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB kỳ hạn  giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex tăng 0,4% lên 1,8264 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 4/2015 tăng 0,4% lên 1,8204 USD/gallon.

Tồn kho sản phẩm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, tăng 2,5 triệu thùng, trái ngược với dự đoán giảm 2,3 triệu thùng của giới phân tích.

Trên thị trường kim loại quý, vàng tiếp tục giảm giá phiên thứ 8 liên tiếp khi USD chưa dừng đà tăng trong bối cảnh chứng khoán Mỹ cũng tăng mạnh, làm giảm sức hấp dẫn của mặt hàng vàng.
Giá vàng giao ngay chốt phiên 11/3 giảm 0,7% xuống 1.153,1 USD/ounce, thấp nhất 3 tháng rưỡi, ghi nhận phiên thứ 8 giảm liên tiếp, khi USD, chứng khoán tăng mạnh.

Giá vàng kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York giảm 9,5 USD, tương đương 0,8%, xuống 1.150,6 USD/ounce, thấp nhất 4 tháng qua.

Tuy nhiên nếu tính theo euro thì giá vàng hiện đang ở mức cao nhất 1 tháng.

Giá vàng đang chịu áp lực lớn khi số liệu việc làm phi nông nghiệp tích cực của Mỹ công bố tuần trước làm tăng đồn đoán Fed sẽ bắt đầu nâng lãi suất từ giữa năm nay.

Lãi suất cao hơn sẽ làm giảm nhu cầu kim loại quý do vàng là tài sản phi lãi suất đồng thời đẩy USD tăng cao - lên cao nhất 12 năm so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ.

Giá vàng cũng đang chịu áp lực khi chứng khoán Mỹ và châu Âu đồng loạt tăng giá - hồi phục sau đợt bán tháo trong phiên trước.

Tuy nhiên, giá vàng giảm xuống thấp nhất 3 năm rưỡi đang thu hút sự quan tâm của giới săn hàng giá rẻ ở châu Á - khu vực tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới, theo giới thương nhân.

Tại Trung Quốc, chênh lệch giữa giá nội địa và quốc tế đang ở 5 USD/ounce, cho thấy nhu cầu đang tăng.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,2% xuống thấp nhất 3 tháng ở 12,26 USD/ounce, gí palladium giảm 1,4% xuống 789,47 USD/ounce và giá bạch kim giảm xuống 1.109,5 USD/ounce, thấp nhất kể từ tháng 7/2009.

Trên thị trường cà phê, giá tiếp tục sụt giảm trong bối cảnh tiêu thụ chậm và tồn kho tại New York gia tăng. Trên sàn New York, arabica kỳ hạn giaotháng 3/2015 giá giảm 3,3 US cent/lb xuống 128,4 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 3,3 US cent/lb xuống 131,75 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 3,2 US cent/lb xuống 135,05 US cent/lb; và Kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 3,2 US cent/lb xuống 137,95 US cent/lb.

Trên sàn London, giá robusta kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 28 USD/tấn xuống 1.803 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 36 USD/tấn xuống 1.820 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 34 USD/tấn xuống 1.846 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 34 USD/tấn xuống 1.871 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice5/Liffe5) giảm xuống 49,2 US cent/lb từ 50,80 US cent/lb phiên trước đó.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng thế giới. Sáng nay 12/3, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên giảm thứ 3 liên tiếp trong tuần khi giảm mạnh 600.000 đồng/tấn xuống 37,2-38,1 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 36 USD/tấn từ 1.766 USD/tấn hôm qua xuống 1.730 USD/tấn.
Có nhiều dự báo khác nhau về triển vọng giá cà phê trong thời gian tới. Trong báo cáo mới công bố, Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) nhận định vụ này thế giới sẽ thiếu hụt cà phê do sản lượng sụt giảm trong khi nhu cầu tăng mạnh hơn năm trước. Ngành cà phê Việt Nam cũng đánh giá sản lượng năm nay thấp. Tại Hội nghị Phát triển bền vững ngành cà phê Việt Nam nằm trong chuỗi sự kiện Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ V năm 2015, ông Nguyễn Viết Vinh – Tổng Thư ký Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam – Vicofa dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2014/15 giảm 20% so với vụ trước do cà phê Arabica giảm 30%; cà phê Robusta ở Tây Nguyên bị “cúm” khi ra hoa, kết hợp khô hạn nhiều vùng thiếu nước; lượng cà phê già tiếp tục tăng.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
So với phiên trước
So với phiên trước (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
48,17
-0,12
-0,2%
Dầu Brent
USD/thùng
57,54
+1,15
+2%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
45.190,00
+640,00
+1,44%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,82
-0,00
-0,07%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
182,77
+0,13
+0,07%
Dầu đốt
US cent/gallon
182,77
+0,73
+0,40%
Dầu khí
USD/tấn
551,25
+5,00
+0,92%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
57.400,00
+590,00
+1,04%
Vàng New York
USD/ounce
1.150,6
-9,5
-0,8%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.496,00
-29,00
-0,64%
Bạc New York
USD/ounce
15,43
+0,06
+0,39%
Bạc TOCOM
JPY/g
60,40
-0,90
-1,47%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.120,13
-0,12
-0,01%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
790,85
+1,45
+0,18%
Đồng New York
US cent/lb
260,75
+0,15
+0,06%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.730,00
-35,00
-0,61%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.745,00
-17,00
-0,96%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
1.996,00
-25,00
-1,24%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
17.430,00
-370,00
-2,08%
Ngô
US cent/bushel
390,00
-1,00
-0,26%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
500,25
+1,25
+0,25%
Lúa mạch
US cent/bushel
282,75
+0,75
+0,27%
Gạo thô
USD/cwt
10,68
-0,06
-0,51%
Đậu tương
US cent/bushel
994,75
+2,00
+0,20%
Khô đậu tương
USD/tấn
333,70
+0,40
+0,12%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,16
+0,06
+0,19%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
469,20
-0,30
-0,06%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.855,00
-58,00
-1,99%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
131,75
-3,30
-2,44%
Đường thô
US cent/lb
13,14
+0,12
+0,92%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
118,20
-0,80
-0,67%
Bông
US cent/lb
60,36
+0,03
+0,05%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
282,00
+0,40
+0,14%
Cao su TOCOM
JPY/kg
210,00
+1,50
+0,72%
Ethanol CME
USD/gallon
1,49
+0,02
+1,64%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg