menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 19/3: Dầu và vàng hồi phục, đồng giảm mạnh nhất 7 tuần

10:39 19/03/2015

Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 18/3 (kết thúc vào rạng sáng 19/3 giờ VN), giá dầu và vàng hồi phục sau khi Fed kết thúc kỳ họp và đánh tín hiệu sẽ tăng lãi suất vào giữa năm. Cà phê cũng tiếp tục đà tăng giá phiên thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên kim loại đồng giảm giá mạnh do ảnh hưởng từ kinh tế Trung Quốc.

(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 18/3 (kết thúc vào rạng sáng 19/3 giờ VN), giá dầu và vàng hồi phục sau khi Fed kết thúc kỳ họp và đánh tín hiệu sẽ tăng lãi suất vào giữa năm. Cà phê cũng tiếp tục đà tăng giá phiên thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên kim loại đồng giảm giá mạnh do ảnh hưởng từ kinh tế Trung Quốc.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đánh tín hiệu tăng lãi suất vào giữa năm nay.

Tuyên bố của Fed đã hỗ trợ thị trường dầu trong phiên thứ vừa qua. Nhưng giới thương nhân và nhà đầu tư cho biết, giá dầu có thể sẽ chỉ tăng trong ngắn hạn bởi thị trường vẫn chịu áp lực từ dư cung.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) đã dứt mạch giảm 6 phiên liên tiếp trong bối cảnh thị trường tài chính khởi sắc sau khi Fed đánh tín hiệu sẽ nâng lãi suất vào giữa năm nay. WTI hợp đồng kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex New York tăng 1,2 USD, tương đương 2,8%, lên 44,66 USD/thùng.

Trên sàn London, giá dầu Brent cũng giao tháng 4/2015 tăng 2,4 USD, tương đương 4,5%, lên 55,91 USD/thùng.

Viễn cảnh giá dầu vẫn chịu áp lực lớn khi dự trữ dầu thô tại Cushing, Oklahoma lại lập đỉnh mới, theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA). Theo số liệu của EIA, dự trữ dầu thô tại Cushing trong tuần kết thúc vào 13/3 tăng 2,9 triệu thùng lên 54,4 triệu thùng, cao nhất kể từ tháng 4/2004, trong khi sức chứa tối đa tại Cushing là 70,8 triệu thùng. Sản lượng dầu của Mỹ cũng lập đỉnh mới, lên 9,4 triệu thùng/ngày. Tồn kho dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 13/3 tăng 9,6 triệu thùng lên 458,5 triệu thùng, ghi nhận tuần thứ 10 tăng liên tiếp và lập kỷ lục mới kể từ 1982.

Sản lượng dầu toàn cầu tiếp tục tăng - Mỹ và thành viên OPEC như Arab Saudi và Libya - đã khiến giá dầu giảm hơn 59% từ tháng 6/2014 xuống thấp nhất 6 năm.

Dự trữ xăng của Mỹ trong tuần kết thúc vào 13/3 giảm 4,5 triệu thùng, trong khi giới phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal dự báo giảm 900.000 thùng.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex tăng 6,9 cent, tương đương 4%, lên 1,7991 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 4/2015 tăng7,86 cent, tương đương 4,6%, lên 1,7725 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng sau kết quả cuộc họp của Fed.

Giá vàng giao ngay lúc 15h35 giờ New York tăng 1,8% lên 1.168,7 USD/ounce, sau khi tăng 2,2% lên 1.174,1 USD/ounce, cao nhất kể từ 9/3. Giá vàng giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York tăng 3,1 USD, tương đương 0,3%, lên 1.151,3 USD/ounce.

USD giảm 1,7% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, giúp hỗ trợ giá vàng, theo giới thương nhân. Lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm hơn 6,5% sau tuyên bố của Fed, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 6/2012.

Mặc dù Fed đánh tín hiệu sẽ nâng lãi suất vào tháng 6 tới đây, kết thúc cam kết “kiên nhẫn” trong bình thường hóa chính sách tiền tệ, nhưng vẫn để ngỏ thời gian thực hiện trong viễn cảnh thận trọng về nền kinh tế Mỹ cho thấy Fed vẫn lo ngại về tốc độ hồi phục của nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Giá vàng - tài sản phi lãi suất - đã giảm 3% kể từ đầu năm trước đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất.

Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Ba 17/3 giảm 0,4% xuống 747,98 USD/ounce.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,6%  lên 15,92 USD/ounce, giá palladium tăng 1,8% lên 774,72 USD/ounce và giá bạch kim tăng 2,1% lên 1.1152 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng loạt sụt giảm vào lúc đóng cửa sau số liệu cho thấy thị trường bất động sản Trung Quốc trì trệ. Đồng giảm mạnh nhất 7 tuần xuống mức thấp nhất kể từ 17/2.

Giá nhà mới ở Trung Quốc giảm ở 66 trong số 70 thành phố trong tháng vừa qua, nhiều hơn con số 64 thành phố hôi tháng 1. Đồng đã giảm 9% trong năm nay chủ yếu do tăng trưởng ở Trung Quốc – nước sửa dụng đồng hàng đầu thế giới – tăng trưởng chậm lại và thị trường nhà đất nguội lạnh.

Trên sàn New York, đồng kỳ hạn giao tháng 5 giảm 2,4% xuống 2,5705 USD/lb, mức giảm mạnh nhất kể từ 17/2. Trong phiên có lúc giá xuống thấp nhất kể từ 27/1 là 2,5525 USD/lb.

Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 2% xuống 5.670 USD/tấn. Tồn trữ đồng ở LME đã tăng 92% trong năm nay.

Về các kim loại khác, giá chì giảm 2,1% xuống 1.687 USD/tấn trên sàn London. Nhôm, nickel, thiếc và kẽm cũng giảm.

Trên thị trường cà phê, giá tiếp tục tăng mạnh phiên thứ 3 liên tiếp.

Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn New York giá tăng 2,3 US cent/lb lên 136,25 US cent/lb; trong khi đó, kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 1,9 US cent/lb lên 140,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 1,95 US cent/lb lên 143,35 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 1,95 US cent/lb lên 146,3 US cent/lb.

Giá cà phê Arabica tăng phần nào nhờ dự đoán của Neumann, hãng thương mại cà phê Đức, rằng sản lượng cà phê Brazil năm nay đạt 45,3 triệu bao. Con số này tuy thấp hơn cao hơn so với 40,3-43.25 triệu bao dự đoán của ProCafe đưa ra hồi tuần trước, song vẫn thấp hơn đáng kể so với 50 triệu bao dự báo của Olam và Volcafe.

Trong khi đó, Hợp tác xã cà phê lớn thứ 3 Brazil Cocapec dự đoán sản lượng cà phê của Hợp tác xã năm nay chỉ đạt khoảng 1 triệu bao, giảm 50% so với 2 triệu bao năm 2014.

Brazil hiện là nước sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Năm 2014, sản lượng cà phê của Brazil đạt 45,3 triệu bao, giảm từ 49,2 triệu bao năm 2013 và kỷ lục 50,8 triệu bao năm 2012.

Trên sàn London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 41 USD/tấn lên 1.795 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 41 USD/tấn lên 1.819 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 43 USD/tấn lên 1.849 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 43 USD/tấn lên 1.876 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice5/Liffe5) tăng nhẹ lên 57,55 US cent/lb từ 57,51 cent phiên trước.

Cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay 19/3, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên nối tiếp phiên hôm qua tăng rất mạnh 1,2-1,4 triệu đồng/tấn lên 37,9-38,8 triệu đồng/tấn, ghi nhận phiên thứ 3 tăng liên tiếp trong tuần.

Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 41 USD/tấn từ 1.688 USD/tấn cuối tuần qua lên 1.729 USD/tấn.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cà phê trong tháng 2/2015 đạt 1.537.383 bao (92.243 tấn), giảm 30,3% so với tháng 1. So với tháng 2/2014, xuất khẩu cà phê tháng 2 năm nay giảm 49,5%.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
So với phiên trước
So với phiên trước (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
44,66
+1,2
+2,8%
Dầu Brent
USD/thùng
55,91
+2,4
+4,5%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
43.020,00
+1.380,00
+3,31%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,91
-0,01
-0,38%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
179,19
-0,72
-0,40%
Dầu đốt
US cent/gallon
176,56
-0,69
-0,39%
Dầu khí
USD/tấn
533,75
+15,25
+2,94%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
54.770,00
+1.410,00
+2,64%
Vàng New York
USD/ounce
1.168,7
+12,60
+1,8%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.520,00
+45,00
+1,01%
Bạc New York
USD/ounce
15,99
+0,45
+2,89%
Bạc TOCOM
JPY/g
61,70
+0,90
+1,48%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.131,13
+13,00
+1,16%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
784,43
+1,98
+0,25%
Đồng New York
US cent/lb
257,05
-3,80
-2,4%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.670,00
-115,00
-1,99%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.763,00
-23,00
-1,29%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
1.988,00
-27,50
-1,36%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
16.850,00
-500,00
-2,88%
Ngô
US cent/bushel
378,25
+3,50
+0,93%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
514,75
+4,00
+0,78%
Lúa mạch
US cent/bushel
278,00
+4,75
+1,74%
Gạo thô
USD/cwt
10,97
-0,08
-0,68%
Đậu tương
US cent/bushel
974,25
+9,25
+0,96%
Khô đậu tương
USD/tấn
324,10
+3,30
+1,03%
Dầu đậu tương
US cent/lb
30,98
+0,35
+1,14%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
462,10
-0,80
-0,17%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.758,00
-30,00
-1,08%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
140,05
+1,90
+1,38%
Đường thô
US cent/lb
12,73
-0,09
-0,70%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
112,60
+0,35
+0,31%
Bông
US cent/lb
62,13
-0,35
-0,56%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
278,80
+0,10
+0,04%
Cao su TOCOM
JPY/kg
212,00
+0,50
+0,24%
Ethanol CME
USD/gallon
1,47
+0,01
+0,41%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg