(VINANET) – Phiên giao dịch 19/3 (kết thúc vào rạng sáng 20/3 giờ VN), giá dầu thô tăng sau ảnh hưởng bởi những bình luận của Chủ tịch FED về chính sách tiền tệ và kinh tế Mỹ. Tuy nhiên cũng chính nguyên nhân này khiến giá vàng tiếp tục sụt giảm.
Giá dầu thô tăng cao hơn vào những phút cuối cùng của phiên giao dịch ngày 19/3, trước khi thị trường chính thức đóng cửa, do nhà đầu tư cảm thấy lo lắng trước quyết định của Cục Dự trữ Liên bang (FED) về việc tiếp tục cắt giảm thêm quy mô của chương trình thu mua trái phiếu hàng tháng, từ 65 tỷ USD hiện nay xuống còn 55 tỷ USD.
Trong cuộc họp báo diễn ra hôm 19/3, sau khi kết thúc cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của FED, Chủ tịch Janet Yellen cho biết, cơ quan này có thể xem xét nâng lãi suất cơ bản lần đầu tiên kể từ năm 2006 cho tới nay. Việc tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm xuống trong thời gian gần đây đã cho thấy nền kinh tế Mỹ đang thực sự hồi phục.
Lãi suất cơ bản đồng USD đã được FED duy trì ở mức thấp kỷ lục 0-0,25% trong suốt mấy năm qua nhằm hỗ trợ nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái cũng như phục hồi sau đó. Tuy nhiên, trong cuộc họp hôm qua, FED để để ngỏ khả năng sẽ sớm tăng lãi suất trở lại. Tuyên bố của FED nói, lãi suất có thể sẽ lên mức 1% vào cuối năm 2015 và 2,25% vào thời điểm 1 năm sau đó. Các quan chức của FED dự định tăng lãi suất vào đầu năm sau hoặc cuối năm nay.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 4 trên sàn hàng hóa New York đã tăng thêm được 67 cent, tương ứng với mức tăng 0,7%, lên 100,37 USD mỗi thùng. Đây là mức giá cao nhất của dầu thô kỳ hạn loại này kể từ ngày 10/3 cho đến nay. Trước khi có báo cáo cung ứng, giá dầu đã đứng ở 100,11 USD.
Trên thị trường New York, giá xăng giao tháng 4 giảm hơn 3 cent, tương ứng với mức giảm 1,2%, xuống còn 2,87 USD mỗi gallon, trong khi giá dầu sưởi giảm 1,5 cent, tương ứng với mức giảm 0,5%, còn 2,9 USD/gallon. Giá khí đốt tháng 4 tăng gần 3 cent, tương ứng với 0,6%, lên 4,48 USD/ triệu BTU.
Trên sàn London, giá dầu thô ngọt, nhẹ Brent Biển Bắc giao tháng 5 ngược dòng giảm 94 cent, tương ứng với mức giảm 0,9%, xuống còn có 105,85 USD mỗi thùng. Sự đi xuống của giá dầu Brent chủ yếu xuất phát từ nỗi lo kinh tế Trung Quốc sau sự đổ vỡ của công ty Zhejiang Xingrung Real Estate, một hãng phát triển địa ốc địa phương.
Báo cáo của chính phủ Mỹ cho biết, tồn kho dầu tại Cushing, Oklahoma giảm 7 tuần liên tiếp và giá dầu Brent giảm 0,9%. Theo cơ quan Quản lý thông tin năng lượng (EIA), tuần trước, nguồn cung dầu tại Cushing giảm 989.000 thùng xuống còn 29,8 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 1/2012.
Giá dầu cũng tăng lên sau khi công ty Enterprise Products Partners LP cho biết sẽ mở rộng gấp đôi hệ thống đường dẫn dầu giữa Cushing và Houston.
Trên thị trường kim loại quý, phát ngôn của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đẩy đồng USD tăng giá mạnh và kéo giá vàng sụt gần 2%, mạnh nhất trong vòng 3 tháng.
Theo chuyên gia phân tích kim loại quý James Steel của HSBC, “Sức hút của vàng với tư cách một kênh đầu tư chống lạm phát suy giảm sau các tuyên bố trên của FED. Giá vàng cũng đã giảm vì sự xuống thang của các rủi ro địa chính trị. Sự kết hợp của hai yếu tố này là khá mạnh” .
Lúc đóng cửa phiên giao dịch tại New York, giá vàng giao ngay giảm 24,9 USD/oz, tương đương giảm hơn 1,8%, còn 1.331,6 USD/oz. Đây là phiên giảm giá mạnh nhất của vàng thế giới kể từ ngày 19/12/2013.
Tại châu Á sáng nay, giá vàng tiếp tục giảm. Lúc gần 7h sáng giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay giảm thêm 5 USD/oz so với đóng cửa phiên Mỹ, còn 1.326,5 USD/oz.
Trong vòng 3 phiên giao dịch trở lại đây, giá vàng giảm liên tục, với tổng mức giảm khoảng 4%, chủ yếu do hoạt động chốt lời của các nhà đầu tư sau đợt vàng tăng giá vì căng thẳng leo thang ở Ukraine.
Đồng USD mạnh lên càng gây sức ép giảm giá cho vàng. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, giá kim loại quý này đã tăng 10%, sau khi giảm 28% trong năm 2013.
Giá cà phê arabica tiếp tục giảm thêm 3% nữa, rời xa mức cao kỷ lục 2 năm.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
100,50
|
+0,13
|
+0,13%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
106,11
|
+0,26
|
+0,25%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.230,00
|
+270,00
|
+0,42%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,47
|
-0,01
|
-0,31%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
287,00
|
-3,28
|
-1,13%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
290,30
|
-1,25
|
-0,43%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
888,75
|
+1,75
|
+0,20%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
76.870,00
|
+490,00
|
+0,64%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.331,00
|
-10,30
|
-0,77%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.389,00
|
-35,00
|
-0,79%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,67
|
-0,19
|
-0,92%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
68,10
|
-0,10
|
-0,15%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.449,19
|
+1,69
|
+0,12%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
764,50
|
+1,00
|
+0,13%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
296,70
|
+1,55
|
+0,53%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.553,00
|
+70,00
|
+1,08%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.739,00
|
+3,00
|
+0,17%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.980,00
|
-0,25
|
-0,01%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
23.225,00
|
+65,00
|
+0,28%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
486,25
|
-1,50
|
-0,31%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
713,75
|
-2,00
|
-0,28%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
430,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,50
|
-0,02
|
-0,13%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.434,00
|
+2,75
|
+0,19%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
463,90
|
+1,90
|
+0,41%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
41,88
|
-0,22
|
-0,52%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
465,50
|
-2,40
|
-0,51%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.025,00
|
+11,00
|
+0,36%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
185,50
|
-6,05
|
-3,16%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,32
|
+0,18
|
+1,05%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
152,90
|
-0,05
|
-0,03%
|
Bông
|
US cent/lb
|
92,73
|
+0,11
|
+0,12%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
1.027,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
338,20
|
+0,60
|
+0,18%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
237,10
|
+1,90
|
+0,81%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,49
|
0,00
|
+0,04%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg