menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG tuần tới 14/3: Dầu, vàng và cà phê cùng giảm

14:30 15/03/2015

Hàng hóa thế giới phiên cuối tuần (13/3, kết thúc vào rạng sáng 14/3 giờ VN), đồng loạt giảm. Tính chung trong tuần, vàng giảm giá khoảng 1% nhưng dầu mất gần 10%.

(VINANET) – Hàng hóa thế giới phiên cuối tuần (13/3, kết thúc vào rạng sáng 14/3 giờ VN), đồng loạt giảm. Tính chung trong tuần, vàng giảm giá khoảng 1% nhưng dầu mất gần 10%.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần giảm sau khi IEA công bố báo cáo cho thấy sự lo ngại dư cung và sức chứa tới hạn của các bể chứa tại Mỹ có thể khiến giá dầu tiếp tục giảm.

Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex New York giảm 2,21 USD, tương đương 4,7%, xuống 44,84 USD/thùng. Giá dầu kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 2,41 USD, tương đương 4,2%, xuống 54,67 USD/thùng.

Tính chung trong tuần qua, giá dầu thô mất tới 9% giá trị.

Lời cảnh báo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) về nguồn cung quá dư thừa do cầu giảm mạnh, là nguyên nhân làm sụt giảm giá của loại nhiên liệu quý hiếm này, bất chấp các thông tin về số lượng các giàn khoan của Mỹ ngừng hoạt động ngày càng tăng. Một lý do nữa khiến giá dầu thô lao dốc là do các nhà đầu tư xác định Iran và nhóm P5+1 (gồm 5 nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc cùng với Đức) có nhiều khả năng sẽ đạt được thỏa thuận về chương trình hạt nhân của Tehran, dẫn tới việc dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu đối với Iran, càng làm dư thừa nguồn cung.

Báo cáo của IEA đã gây áp lực lên thị trường dầu tương lai - ổn định trong những tuần qua sau 7 tháng bán tháo liên tiếp trong bối cảnh dư cung toàn cầu do sản lượng dầu Mỹ và Iraq liên tục tăng.

Ngoài ra, báo cáo của IEA cũng khiến thị trường lo ngại hơn về việc Mỹ sắp hết chỗ chứa dầu - có khả năng kéo giá dầu giảm hơn nữa nếu sản lượng tiếp tục tăng.

Yếu tố tích cực duy nhất hôm thứ Sáu 13/3 là báo cáo của Baker Hughes cho thấy số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ giảm 14 tuần liên tiếp, khi giảm 56 xuống 866 giàn, thấp nhất kể từ tháng 3/2011.

Tuy giảm 46% từ mức đỉnh 1.609 giàn trong tháng 10/2014 song việc này vẫn chưa giúp kéo giảm sản lượng do các nhà sản xuất vẫn đang hoàn thiện các giếng dầu đã khoan từ trước và tập trung khai thác tại các khu vực có năng suất cao nhất nhằm cắt giảm chi phí.

IEA cho biết sản lượng dầu của Mỹ trong tháng 2/2015 tăng 115.000 thùng/ngày, một phần trong số này được đưa vào bể chứa - công suất đang tới hạn tối đa.  Việc này chắc chắn sẽ khiến giá dầu giảm trong thời gian tới. IEA gọi sự ổn định trong thời gian qua là “sự giả tạo”.

Nhiều khả năng giá dầu sẽ còn tiếp tục đi xuống do mức giảm thời gian qua chưa đủ để kéo giảm nguồn cung và có nhiều dấu hiệu cho thấy nhu cầu tăng chỉ mang tính tạm thời - giới săn hàng giá rẻ tận dụng cơ hội giá dầu thấp để bổ sung lượng lưu kho, IEA cho biết.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex giảm 2,6% xuống 1,7623 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 4/2015 giảm3,7% xuống 1,7130 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần tăng nhẹ bất chấp USD mạnh lên khi giới đầu tư đặt cược Fed hoãn nâng lãi suất.

Hợp đồng giao ngay trên sàn New York tăng 0,1% lên 1.154,35 USD/ounce. Hợp đồng kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York tăng 50 cent lên 1.152,4 USD/ounce.

Vàng đã giảm giá 6 trong 7 phiên giao dịch vừa qua, đến nay giảm 1% và chạm mức thấp nhất hơn 3 tháng ở 1.147,1 USD/ounce hôm thứ Tư 11/3.

Giá vàng chịu áp lực lớn khi báo cáo việc làm phi nông nghiệp của Mỹ tốt hơn dự đoán công bố tuần trước làm tăng đồn đoán Fed sẽ sớm nâng lãi suất. Tâm điểm chú ý tiếp theo của thị trường vàng sẽ là phiên họp Ủy ban chính sách của Fed vào 17-18/3 tới đây.

USD mạnh lên tiếp tục phủ bóng đen lên giá vàng, khiến việc nắm giữ vàng trở nên đắt hơn đối với khách hàng sử dụng ngoại tệ, trong khi lãi suất cao hơn thường làm giảm nhu cầu các loại tài sản phi lãi suất như vàng.

Trong số các kim loại quý khác giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 15,52 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 0,1% lên 789 USD/ounce, giá bạch kim ổn định ở 1.111 USD/ounce sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ 2009 ở 1.108,5 USD/ounce hôm thứ Năm 12/3.

Trên thị trường cà phê, giá tiếp tục giảm trong phiên cuối tuần, và tính chung trong cả tuần cũng giảm, bất chấp các dự báo về sản lượng giảm và tiêu thụ tăng.
Trên sàn New York, cà phê arabicakỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 2,4 US cent/lb xuống 126,45 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 2,4 US cent/lb xuống 129,8 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 2,3 US cent/lb xuống 133,15 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 2,25 US cent/lb xuống 136,15 US cent/lb.

Trên sàn London, giá cà phê robusta giảm thứ 5 liên tiếp trong tuần, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 65 USD/tấn xuống 1.686 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 60 USD/tấn xuống 1.708 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 60 USD/tấn xuống 1.735 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 60 USD/tấn xuống 1.760 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice5/Liffe5) hiện ở mức 52,34 US cent/lb.

Sáng 14/3, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên giảm thứ 5 liên tiếp trong tuần khi giảm mạnh 1 triệu đồng/tấn xuống 35,2-36,1 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB giảm 60 USD/tấn từ 1.678 USD/tấn phiên trước xuống 1.618 USD/tấn.

Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), do nguồn cung cà phê của Brazil giảm, một lần nữa nhắc lại dự đoán rằng thiếu hụt cà phê toàn cầu niên vụ 2015-2016 (tháng 10/2015 - tháng 9/2016) lên đến 8 triệu bao khi nguồn cung niên vụ tới chỉ đạt 142 triệu bao trong khi tiêu thụ toàn cầu liên tục tăng.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 7/3
Giá 14/3
Giá 14/3 so với 13/3
Giá 14/3 so với 13/3 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
49,61
44,84
-2,21
-4,70%
Dầu Brent
USD/thùng
59,73
54,67
-2,41
-4,22%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
46.240,00
42.910,00
-1.670,00
-3,75%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,84
2,73
-0,01
-0,26%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
188,19
176,23
-4,72
-2,61%
Dầu đốt
US cent/gallon
186,90
171,30
-6,61
-3,72%
Dầu khí
USD/tấn
569,75
523,75
-16,00
-2,96%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
58.540,00
55.000,00
-1.730,00
-3,05%
Vàng New York
USD/ounce
1.164,30
1.152,40
+0,50
+0,04%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.520,00
4.498,00
-25,00
-0,55%
Bạc New York
USD/ounce
15,81
15,49
-0,02
-0,14%
Bạc TOCOM
JPY/g
61,50
60,80
-0,40
-0,65%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.161,25
1.118,38
+0,63
+0,06%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
818,60
793,75
+3,65
+0,46%
Đồng New York
US cent/lb
260,90
266,35
+0,50
+0,19%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.745,00
5.858,50
+14,50
+0,25%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.782,00
1.772,00
+24,00
+1,37%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.020,00
2.011,00
+3,00
+0,15%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
18.100,00
17.310,00
+85,00
+0,49%
Ngô
US cent/bushel
386,00
380,50
-8,00
-2,06%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
482,50
502,00
-5,25
-1,03%
Lúa mạch
US cent/bushel
283,00
277,75
-3,50
-1,24%
Gạo thô
USD/cwt
10,48
10,58
-0,10
-0,94%
Đậu tương
US cent/bushel
985,00
974,00
-16,50
-1,67%
Khô đậu tương
USD/tấn
327,70
327,00
-4,60
-1,39%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,28
30,49
-0,38
-1,23%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
450,70
459,30
-4,40
-0,95%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.945,00
2.818,00
-20,00
-0,70%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
139,90
129,80
-2,40
-1,82%
Đường thô
US cent/lb
13,44
12,70
-0,51
-3,86%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
115,90
114,10
-0,30
-0,26%
Bông
US cent/lb
62,97
60,50
-0,72
-1,18%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
281,80
274,00
-5,40
-1,93%
Cao su TOCOM
JPY/kg
208,30
212,00
-1,30
-0,61%
Ethanol CME
USD/gallon
1,46
1,44
-0,05
-3,48%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg