menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG tuần tới 15/3: Vàng tăng nhẹ, dầu và đường giảm

10:38 15/03/2014

Thị trường hàng hóa thế giới trong tuần kết thúc vào ngày 14/3 nhiều biến động. Giá vàng và dầu giảm đầu tuần nhưng hồi phục vào cuối tuần. Trái lại giá đồng tiếp tục giảm suốt tuần sau những số liệu thất vọng từ Trung Quốc. Trên thị trường nông sản, cà phê trồi sụt, ngũ cốc giảm nhẹ.

(VINANET) – Thị trường hàng hóa thế giới trong tuần kết thúc vào ngày 14/3 nhiều biến động. Giá vàng và dầu giảm đầu tuần nhưng hồi phục vào cuối tuần. Trái lại giá đồng tiếp tục giảm suốt tuần sau những số liệu thất vọng từ Trung Quốc. Trên thị trường nông sản, cà phê trồi sụt, ngũ cốc giảm nhẹ.

Năng lượng

Phiên cuối tuần trên thị trường thế giới (14/3, kết thúc vào rạng sáng 15/3 giờ VN), giá dầu Brent

hồi phục từ mức thấp nhất 1 tháng khi Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) tăng dự báo nhu cầu và căng thẳng leo thang tại Ukraine. Lần đầu tiên trong 4 ngày, giá dầu Brent tăng. Giá dầu Brent giao tháng 4, hết hạn hôm 14/3, tăng 1,18 USD, tương đương 1,1% lên 108,57 USD/ounce tại London. Các hợp đồng giao tháng 5 tăng 1,29 USD lên 108,21 USD/thùng. Khối lượng giao dịch dầu Brent tại London phiên cuối tuần thấp hơn 1,1% so với mức trung bình 100 ngày qua. Tính chung cả tuần, dầu Brent đã giảm 0,4%.

Trên sàn giao dịch hàng hóa New York, giá dầu WTI phiên cuối tuần giao tháng 4 tăng 69 cent, hay 0,7% lên 98,89 USD/thùng. Giá dầu WTI tăng ngày thứ hai liên tiếp. Khối lượng giao dịch cao hơn 3,1% so với mức trung bình 100 ngày. Tuy nhiên tính chung cả tuần, giá WTI đã giảm 3,6%. Chênh lệch giữa giá dầu cơ sở châu Âu với dầu WTI là 9,68 USD.

IEA vừa nâng dự báo tiêu thụ toàn cầu thêm 95.000 thùng/ngày, viện lý do tăng trưởng kinh tế. Báo cáo của IEA được cho là đã hỗ trợ thị trường, khiến người dân yên tâm hơn về cầu,

Kim loại quý

Phiên cuối tuần, giá vàng tiếp tục tăng lên mứ cao kỷ lục 6 tháng bởi các nhà đầu tư lại thấy bất an khi căng thẳng Đông – Tây Âu gia tăng trước trưng cầu dân ý tại Crimea.

Trên sàn giao dịch New York, giá vàng giao tháng 4  kết thúc tuần tăng 6,6% lên 1.379 USD/ounce, với khối lượng giao dịch cao hơn khoảng 30% so với trung bình ngày. Tính chung cả tuần, giá vàng đã tăng 3% chủ yếu bởi bởi thông tin Trung Quốc ghi nhận vụ vỡ nợ trái phiếu đầu tiên và lo sợ tăng trưởng tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang chặm lại. Giá vàng cũng được hỗ trợ bởi số liệu cho thấy niềm tin tiêu dùng Mỹ thấp trong đầu tháng 3.

Lúc 6h35 sáng nay 15/3, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco đứng ở 1.382 USD/ounce, tăng xấp xỉ 11 USD/ounce so với giá đóng cửa phiên trước. Giá vàng giao ngay tăng khoảng 1,4% lên cao nhất kể từ ngày 9/9 với 1.387,9 USD/ounce đầu phiên giao dịch, sau đó giảm dần mức tăng.

Thị trường đang chờ đợi cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ liên bang Mỹ ngày 18 - 19/3 tới đây khi ngân hàng trung ương được chờ đợi công bố cắt giảm thêm 10 tỷ USD chương trình mua trái phiếu kích thích kinh tế.

Tình hình bất ổn toàn cầu đã đẩy các nhà đầu tư đến với vàng, lượng nắm giữ của quỹ SPDR Gold Trust, quỹ đầu tư chỉ số vàng lớn nhất thế giới đã tăng 2,1 tấn lên 813,3 tấn hôm thứ 5.

Thị trường chứng khoán Nga lao dốc và chi phí bảo hiểm cho các khoản nợ của nước này đã tăng vọt trong ngày cuối cùng giao dịch trước cuộc trưng cầu dân ý về việc gia nhập Nga hay không của nước cộng hòa Crimea, động thái chắc chắn dẫn tới các lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên minh châu Âu.

Giá bạc theo xu hướng vàng, tăng 1% lên 21,35 USD/ounce. Bạch kim giảm 0,6% xuống 1.463 USD/ounce trong khi palladium giảm 0,5% xuống 769,5 USD/ounce.

Kim loại cơ bản

Đồng giảm giá tuần thứ 3 liên tiếp, kỳ giảm dài nhất kể từ tháng 6 do các nhà đầu tư lo ngại về số liệu kinh tế Trung Quốc và nguy cơ vỡ nợ trái phiếu ở nước tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới.

Giá đồng tại London giảm giá 5,5% trong tuần qua xuống mức t hấp nhất trong vòng 44 tháng. Đồng đã mất giá 13% trong năm nay. Đồng kỳ hạn tại Thượng Hải cũng có tuần giảm giá mạnh nhất kể từ tháng 9/2011 và giao dịch ở mức giá thấp nhất kể từ tháng 7/2009.

Trái với đồng, nickel tăng giá 3,1% trong tuần, là tuần thứ 6 liên tiếp tăng giá, dài nhất kể từ tháng 4/2010.

Cà phê

Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 giảm 7,55 US cent hay 3,7% xuống 1,984 USD/lb, từ mức cao kỷ lục 2 năm là 2,0975 đạt được hồi giữa tuần.

Tuy nhiên, tính từ đầu năm tới nay, cà phê arabica đã tăng giá 80% do lo ngại khô hạn ở Brazil.

Cà phê robusta kỳ hạn tại London cũng giảm giá phiên cuối tuần, giảm 14 USD xuống 2.175 USD/tấn.

Thị trường cà phê phương Tây nóng lên khiến thị trường cà phê châu Á trở nên yên tĩnh hơn bởi người mua có thái độ theo dõi hơn là quyết định mua.

Một số thương gia ở Singapre báo giá cà phê Indonesia loại 4, 80 hạt lỗi, cao hơn 30 USD/tấn so với giá tại London, tăng gấp rưỡi mức +20 USD một tuần trước đây. Nhưng sự tăng mức chênh lệch giá phản ánh giao dịch thưa thớt.

Cà phê Việt Nam loại 2, 5% đen và vỡ (robusta) chào giá trong khoảng -110 USD/tấn  đến – 60 USD/tấn so với giá tại London, so với mức -100 đến -150 USD/tấn một tuần trước đây.

Hiện giá robusta tại Việt Nam đang duy trì ở mức cao nhất kể từ giữa năm 2013 do bị chi phối bởi giá tăng tại London.

Đường

Giá dường thô trên thị trường Mỹ phiên cuối tuần tăng mạnh nhất trong vòng hơn 2 năm do thời tiết xấu và lo ngại sản lượng kém ở Brazil. Tuy nhiên tính chung trong tuần giá giảm 4,2%.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
98,89
0,00
0,00%
Dầu Brent
USD/thùng
108,21
+1,29
+1,21%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.710,00
+570,00
+0,88%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,43
+0,04
+0,96%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
295,97
0,00
0,00%
Dầu đốt
US cent/gallon
294,31
0,00
0,00%
Dầu khí
USD/tấn
901,75
+11,00
+1,23%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
76.860,00
+660,00
+0,87%
Vàng New York
USD/ounce
1.379,00
0,00
0,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.498,00
+17,00
+0,38%
Bạc New York
USD/ounce
21,41
0,00
0,00%
Bạc TOCOM
JPY/g
70,00
+0,50
+0,72%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.469,75
-6,69
-0,45%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
772,81
-3,89
-0,50%
Đồng New York
US cent/lb
295,05
+2,75
+0,94%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.469,00
+54,00
+0,84%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.740,00
-1,00
-0,06%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
1.980,00
-2,00
-0,10%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
22.925,00
0,00
0,00%
Ngô
US cent/bushel
486,00
+1,00
+0,21%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
687,25
+13,50
+2,00%
Lúa mạch
US cent/bushel
443,75
+3,75
+0,85%
Gạo thô
USD/cwt
15,36
+0,13
+0,85%
Đậu tương
US cent/bushel
1.388,50
-7,75
-0,56%
Khô đậu tương
USD/tấn
444,00
+2,10
+0,48%
Dầu đậu tương
US cent/lb
42,29
-0,70
-1,63%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
461,10
+5,00
+1,10%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.992,00
-14,00
+2.04%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
198,40
-7,55
+0.32%
Đường thô
US cent/lb
17,25
-0,57
+0.85%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
149,50
-1,35
-1.47%
Bông
US cent/lb
92,19
+0,51
+0.13%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.027,00
0,00
0.00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
340,50
0,00
-4.27%
Cao su TOCOM
JPY/kg
243,50
+3,30
-0.33%
Ethanol CME
USD/gallon
2,33
0,00
+2.69%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg