menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG tuần tới 25/4: Giá dầu nối dài những tuần tăng

10:01 25/04/2015

Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên cuối tuần 24/4 (kết thúc vào rạng sáng 25/4 giờ VN) biến động thất thường. Dầu tăng ở London nhưng giảm ở New York; cà phê tăng ở New York nhưng giảm ở London… do chịu tác động vừa bởi các yếu tố cơ bản, vừa sự biến động trên thị trường tài chính.

(VINANET)- Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên cuối tuần 24/4 (kết thúc vào rạng sáng 25/4 giờ VN) biến động thất thường. Dầu tăng ở London nhưng giảm ở New York; cà phê tăng ở New York nhưng giảm ở London… do chịu tác động vừa bởi các yếu tố cơ bản, vừa sự biến động trên thị trường tài chính.

Trên thị trường năng lượng, chốt phiên cuối tuần giá dầu biến động trái chiều giữa 2 thị trường, với dầu Brent tăng lên mức cao kỷ lục cao 5 tháng do chiến sự leo thang tại Yemen, song dầu Mỹ giảm bởi giới kinh doanh lại hướng sự chú ý vào vấn đề dư cung khi sản lượng của Nga và Saudi Arabia gia tăng.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) ngọt nhẹ giao tháng 6/2015 trên sàn Nymex New York giá đóng cửa giảm 59 cent, tương đương 1%, xuống 57,15 USD/thùng. Mặc dù vậy, tính chung trong tuần giá vẫn tăng 3%, là tuần tăng thứ 6 liên tiếp - đợt tăng giá kéo dài nhất của dầu thô WTI kể từ thời điểm quý 1/2014.

Dầu Brent, chuẩn toàn cầu, giao tháng 6/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 43 cent, tương đương 0,7%, lên 65,28 USD/thùng, cao nhất 5 tháng qua. Trong phiên có lúc dầu Brent đạt 65,80 USD/thùng, cao nhất kể từ thời điểm ngày 10/12/2014. Đây là tuần thứ ba liên tiếp giá dầu Brent giữ được chiều hướng tăng. Riêng trong tuần qua, loại dầu thô này cũng đã tăng xấp xỉ 3,0%. 


Các chuyên gia cho rằng tình hình chiến sự bùng phát căng thẳng hơn giữa các phe phái ở miền Nam và miền Trung Yemen cộng với việc liên minh Arab, do Saudi Arabia đứng đầu, nối lại chiến dịch không kích vào các mục tiêu của nhóm vũ trang Houthi đã làm cho các nhà đầu tư lo lắng về nguồn cung từ khu vực dầu lửa Trung Đông, khiến giá dầu Brent tăng lên.

Giới đầu tư đang tỏ ra dao động trước dấu hiệu cho thấy sản lượng dầu toàn cầu tiếp tục tăng. Theo John Kilduff, thành viên sáng lập Again Capital tại New York, cho biết, hiện có tin cho rằng Nga bất ngờ tăng sản lượng dầu. Trong khi đó, Na Uy cũng đang bơm tiền vào dự án dầu khí trị giá 15 tỷ USD ở Biển Bắc - có thể mang lại lợi nhuận khi chi phí khai thác là 32 USD/thùng.

Những dấu hiệu hồi đầu tháng 4 cũng cho thấy, Arab Saudi đang tăng sản lượng, Andy Lipow, chủ tịch Lipow Oil Associates tại Houston, cho biết. Và tuy sản lượng dầu Mỹ bắt đầu giảm song vẫn ở mức cao.

Giới đầu tư đang loại bỏ mối nguy Iran và Libya quay lại thị trường dầu thô, theo các nhà phân tích tai Commerzbank. Tuy nhiên, nếu 2 nước này giành lại được hạn ngạch sản lượng bằng mốc trước thời khủng hoảng, mức tăng sản lượng 2 triệu thùng/ngày có thể được bù đắp với mức tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong 2 năm tới, nhưng cũng sẽ làm tăng dư cung.

Thay vì tập trung vào Iran và Libya, giới đầu cơ giá dầu lên lại đang theo dõi số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ - giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2010, theo số liệu của Baker Hughes Inc. Theo đó, số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ trong tuần kết thúc vào 24/4 giảm 31 xuống 703 giàn.

Ngày 23/4, Société Générale đã nâng dự báo giá dầu Brent năm 2015 thêm 4,33 USD lên 59,54 USD/thùng và giá dầu WTI thêm 4,28 USD lên 53,62 USD/thùng. Tuy nhiên, Société Générale cho biết, giá dầu thô trong tháng 5 và tháng 6 sẽ vẫn chịu áp lực do tồn kho dầu của Mỹ tăng thêm 1,9 triệu thùng/ngày trong quý II năm nay.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex tăng 0,6% lên 2,0079 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 5/2015 tăng 0,2% lên 1.9283 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng do chứng khoán toàn cầu tăng mạnh làm giảm sức hấp dẫn của vàng. Giá vàng giao ngay giảm 1,4% xuống 1.177,09 USD/ounce lúc 14h34, mức giảm mạnh nhất kể từ 6/3. Giá vàng giao ngay trong tuần này giảm 2,2%, mức giảm hàng tuần lớn nhất trong 7 tuần qua.

Trong khi đó, giá vàng giao tháng 5/2015 trên sàn Comex New York giảm 19,3 USD/ounce, tương đương 1,6%, xuống 1.175 USD/ounce.

Chứng khoán toàn cầu phiên cuối tuần 24/4 lên cao nhất từ trước đến nay.

Giá vàng giảm bất chấp USD suy yếu - xuống thấp nhất gần 3 tuần so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ sau khi số liệu về số đơn hàng lâu bền của Mỹ trong tháng 3 cho thấy sự sụt giảm chi phí đầu tư của doanh nghiệp, đánh tín hiệu kinh tế Mỹ chưa đủ “khỏe” để Fed nâng lãi suất.

Mọi chú ý được dồn sang cuộc họp chính sách của Fed vào tuần tới nhằm tìm manh mối về thời điểm Ngân hàng trung ương Mỹ sẽ bắt đầu nâng lãi suất.

Số liệu thất vọng về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp, hoạt động sản xuất và doanh số bán nhà cũng ảnh hưởng tiêu cực đến USD trong tuần, làm tăng tính bất ổn về việc liệu Fed có nâng lãi suất vào tháng 6 hay tháng 9 tới hay không.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1% xuống 15,71 USD/ounce, giá bạch kim giảm 1,3% xuống 1.117,75 USD/ounce trong khi giá palladium tăng 0,25% lên 769,5 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê đảo chiều tăng ở New York nhưng tiếp tục giảm tại London. Cà phê arabica trên sàn New York kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 0,7 US cent/lb lên 141,15 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 0,65 US cent/lb lên 142,15 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 0,7 US cent/lb lên 144,8 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 0,8 US cent/lb lên 148,65 US cent/lb.

Cà phê robusta trên sàn London kỳ hạn giao 5/2015 giá giảm 16 USD/tấn xuống 1.795 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 14 USD/tấn xuống 1.816 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 13 USD/tấn xuống 1.839 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá giảm 13 USD/tấn xuống 1.854 USD/tấn.

Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice7/Liffe7) tăng lên 59,79 US cent/lb từ 58,50 US cent/lb hôm qua.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay 25/4, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, nối tiếp phiên hôm qua, tiếp tục giảm 400.000-600.000 đồng/tấn xuống 38,1-38,8 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 16 USD/tấn từ 1.831 USD/tấn hôm qua xuống 1.815 USD/tấn.

Tại Việt Nam, sau khi Newmann Kaffee Gruppe khai trương nhà máy cà phê tại TP. HCM hồi đầu năm nay, E D & F Man Volcafe group cũng sẽ khai trương một nhà máy chế biến cà phê quy mô lớn. Việt Nam hiện vẫn giữ vị trí nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới và nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới, trong khi đó, các công ty sản xuất tiếp tục quan tâm đến việc phát triển cà phê tại các nước láng giềng.

Có thông tin Bộ Nông nghiêp và Phát triển Nông thôn Việt Nam sẽ làm việc với các quan chức Brazil, Colombia và Indonesia để thảo luận những cách thức hỗ trợ giá cà phê. Hiện các nước này chiếm 70% tổng sản lượng cà phê toàn cầu.

Tuy nhiên, lịch sử cho thấy những động thái như trên, tuy có tác động tích cực trong ngắn hạn về giá cà phê, song lại có tác động dài hạn về sản lượng và rốt cuộc gây khó khăn thêm cho người sản xuất.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 18/4
Giá 11/4
Giá 18/4 so với 17/4
Giá 18/4 so với 17/4 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
55,74
57,15
-0,59
-1,02%
Dầu Brent
USD/thùng
63,45
65,28
+0,43
+0,66%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
47.170,00
48.220,00
+370,00
+0,77%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,63
2,53
0,00
0,00%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
192,99
200,79
+1,23
+0,62%
Dầu đốt
US cent/gallon
188,24
192,83
+0,44
+0,23%
Dầu khí
USD/tấn
579,00
588,25
+1,50
+0,26%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
60.680,00
61.520,00
+480,00
+0,79%
Vàng New York
USD/ounce
1.203,10
1.175,00
-19,30
-1,62%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.589,00
4.496,00
-76,00
-1,66%
Bạc New York
USD/ounce
16,23
15,68
-0,19
-1,20%
Bạc TOCOM
JPY/g
62,10
60,20
-0,60
-0,99%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.171,50
1.124,25
-12,63
-1,11%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
786,55
772,30
+0,80
+0,10%
Đồng New York
US cent/lb
277,00
275,30
+5,10
+1,89%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.060,00
6.030,00
+90,00
+1,52%
 Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.815,00
1.822,50
+45,00
+2,53%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.213,00
2.245,00
+22,50
+1,01%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
14.850,00
15.825,00
+350,00
+2,26%
Ngô
US cent/bushel
386,75
369,75
-7,00
-1,86%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
489,25
488,50
-12,75
-2,54%
Lúa mạch
US cent/bushel
269,00
245,50
-10,00
-3,91%
Gạo thô
USD/cwt
9,91
10,23
-0,06
-0,58%
Đậu tương
US cent/bushel
971,50
970,75
-9,25
-0,94%
Khô đậu tương
USD/tấn
314,70
313,30
-1,70
-0,54%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,73
31,86
-0,36
-1,12%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
451,20
451,60
+0,20
+0,04%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.841,00
2.885,00
+83,00
+2,96%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
141,40
142,15
+0,65
+0,46%
Đường thô
US cent/lb
13,24
13,19
+0,16
+1,23%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
115,05
114,15
-3,70
-3,14%
Bông
US cent/lb
63,29
66,34
+0,89
+1,36%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
248,00
258,50
+5,80
+2,30%
Cao su TOCOM
JPY/kg
198,50
206,10
+0,70
+0,34%
Ethanol CME
USD/gallon
1,62
1,58
-0,02
-1,49%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg