menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa thế giới sáng 16/4: Giá hầu hết sụt giảm

12:55 16/04/2014

Giá hàng hóa trong phiên giao dịch 15/4 (kết thúc vào rạng sáng 16/4 giờ VN) hầu hết sụt giảm, từ dầu tới vàng và các kim loại.

(VINANET) – Giá hàng hóa trong phiên giao dịch 15/4 (kết thúc vào rạng sáng 16/4 giờ VN) hầu hết sụt giảm, từ dầu tới vàng và các kim loại.

Giá dầu đảo chiều giảm. Dầu thô ngọt nhẹ trên thị trường New York kỳ hạn giao tháng 5 giá giảm 30 US cent xuống 103,75 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 3,2% so với mức trung bình 100 ngày. Giá dầu Brent giao tháng 5 giảm 0,3% xuống 108,74 USD/thùng trên sàn London, hợp đồng giao tháng 6 tăng 29 US cent lên 109,36 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 1,5% so với mức trung bình 100 ngày.

Chênh lệch giá giữa dầu Brent và WTI giảm xuống 4,99 USD, thấp hơn 5,02 USD so với ngày 14/4.

Vẫn còn đó lo ngại căng thẳng giữa Nga và Ukraine có thể làm gián đoạn nguồn cung dầu tại Nga. Ukraine bắt đầu triển khai hành động quân sự chống khủng bố tại vùng Donetsk. Phương Tây tiếp tục đưa ra các biện pháp trừng phạt nặng hơn đối với Nga vì hành động khuấy động bất ổn tại phía đông Ukraine.

Trong khi đó, Viện Dầu mỏ Mỹ cho biết, tồn kho dầu thô tại Cushing tuần trước giảm 640.000 thùng. Tổng cung dầu thô tăng 7,64 triệu thùng.

Theo Bloomberg, sản lượng dầu của Hiệp hội các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) ước tính giảm xuống 250.000 thùng/ ngày trong tháng 3, thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên vừa qua cũng giảm, là lần giảm nhiều nhất trong 16 tuần qua. Giá vàng giao tháng 6 tại New York giảm 27,20 USD xuống 1,300.30 USD/ounce, đây là mức giảm lớn nhất kể từ ngày 19/2.

Dự báo nhu cầu vàng của Trung Quốc năm nay có thể bị hạn chế sau khi gia giảm giá thúc đẩy người tiêu dùng mua nhiều hơn năm ngoái. Quốc gia này chiếm khoảng 28% khối lượng sử dụng toàn cầu năm ngoái.

Theo nhận định của ông Justin Smirk, nhà kinh tế cao cấp tại tập đoàn Westpac Banking, giá vàng sẽ giảm xuống còn 1,025 USD vào cuối năm nay.

Với các kim loại quý khác, giá bạc giảm 2,6% xuống mức USD19,489/ounce trên sàn Comex, mức giảm lớn nhất kể từ ngày 07/3. Giá bạch kim giao tháng 7 giảm 1,6% xuống 1,444.60USD/ounce. Giá palladium giao tháng 6 giảm 1,9% xuống mức 795,90 USD/ounce. Palladium đã tăng 11% trong năm nay là mối đe dọa sự gián đoạn nguồn cung từ Nga, nhà sản xuất kim loại lớn nhất, cùng với lo ngại cuộc đình công của những thợ mỏ ở Nam Phi.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá hầu hết cũng giảm bởi các nhà đầu tư lo ngại về nhu cầu tiêu dùng của Trung Quốc và căng thẳng ở Ukraine.

Các nhà đầu tư cũng lo lắng về tình hình thắt chặt nguồn cung cấp tiềm năng từ Nga.

Giá nickel giảm nhiều nhất khi các nhà đầu tư chốt lời sau khi giá kim loại này lên cao nhất 14 tháng do lệnh cấm xuất khẩu quặng từ Indonesia – nước xuất khẩu quặng lớn nhất và lo ngại về gián đoạn nguồn cung từ Nga (cũng là một nước sản xuất quặng hàng đầu thế giới).

Giá kim loại cũng bị ảnh hưởng trước số liệu cung tiền của Trung Quốc trong tháng 3 tăng yếu nhất trong hơn một thập kỷ qua. Đây là tín hiệu tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và thị trường tiêu thụ kim loại lớn nhất.

Giá nickel giao 3 tháng trên sàn London đã giảm 3,7%. Đó là giá thời điểm đóng cửa, nhưng giá cuối cùng ở mức 17.650 USD so với mức 17.790 USD phiên trước đó.

Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME giảm xuống 6.540USD/tấn so với mức 6.667 USD/tấn vào hôm thứ Hai. Theo Reuters, giá đồng dự kiến sẽ giảm trong năm nay do nguồn cung tăng nhanh hơn so với nhu cầu. Giá nhôm giao 3 tháng đóng cửa ở mức 1.853USD/tấn và giá thiếc lúc đóng cửa ở 23.375USD/tấn. Giá kẽm đạt mức 2.045USD/tấn.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê cũng quay đầu giảm. Giá cà phê Arabica giảm mạnh nhất trong hơn 3 tuần do dự báo mưa sẽ làm giảm bớt thiệt hại có thể có cho cà phê do bị hạn hán ở Brazil, nước trồng và xuất khẩu lớn nhất thế giới.

Sau khi giá đạt mức cao nhất 2 năm vào giữa tháng 3, dự báo mưa khiến làn sóng bán tháo hai ngày lớn nhất kể từ năm 2010.

Trên sàn ICE tại NewYork, sau phiên tăng khá vừa qua, giá cà phê Arabica các kỳ hạn lại đột ngột giảm sâu. Cụ thể kỳ hạn giao tháng 5 giá giảm 6,61% xuống 192,15 cent/lb. Kỳ hạn giao tháng 7 giảm 6,33% xuống 195,05 cent/lb. Các kỳ hạn khác giá đều giảm trên 6,2%.

Theo Trung tâm Dịch vụ thời tiết MDA ở Gaithersburg, Maryland, trong 6 đến 10 ngày tới, Sao Paulo, Rio de Janeiro, Espirito Santo và miền Trung và miền Minas Gerais dự kiến sẽ có mưa. Hạn hán trong hai tháng đầu năm đã giảm triển vọng sản lượng và làm giá tăng 76% trong năm nay.

Ước tính sản lượng của Brazil năm nay dao động từ 56,5 triệu bao xuống còn 46 triệu vào tháng trước.

Giá cà phê Robusta trên sàn Liffe tại London giảm phiên thứ 3 liên tiếp. Kỳ hạn giao tháng 5 giá giảm 11 USD, tương đương 0,52% xuống 2.121 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 8 USD, tương đương 0,28% xuống 2.128 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá giảm trên dưới 0,2%.

Giá cà phê trong nước sáng nay cũng theo xu hướng giảm giá thế giới. Giá cà phê Robusta giao tại cảng giá FOB giảm 11 USD xuống 2.051 USD/tấn.

Giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 200-400 nghìn đồng/tấn so với phiên trước xuống 40,3-41,1 triệu đồng/tấn.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
103,81
+0,06
+0,06%
Dầu Brent
USD/thùng
109,19
-0,17
-0,16%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.500,00
+380,00
+0,57%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,55
-0,01
-0,28%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
302,75
-1,09
-0,36%
Dầu đốt
US cent/gallon
298,35
+0,44
+0,15%
Dầu khí
USD/tấn
918,50
+0,75
+0,08%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
79.760,00
+410,00
+0,52%
Vàng New York
USD/ounce
1.297,90
-2,40
-0,18%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.270,00
-44,00
-1,02%
Bạc New York
USD/ounce
19,49
-0,52
-2,60%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,30
-0,90
-1,38%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.439,00
-1,38
-0,10%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
794,25
-0,40
-0,05%
Đồng New York
US cent/lb
299,15
-5,60
-1,84%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.541,00
-126,00
-1,89%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.852,00
-30,00
-1,59%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.045,00
-8,50
-0,41%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
23.375,00
-50,00
-0,21%
Ngô
US cent/bushel
507,25
-2,50
-0,49%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
707,00
-2,75
-0,39%
Lúa mạch
US cent/bushel
351,25
-1,00
-0,28%
Gạo thô
USD/cwt
15,41
0,00
0,00%
Đậu tương
US cent/bushel
1.494,50
+7,00
+0,47%
Khô đậu tương
USD/tấn
476,80
+2,40
+0,51%
Dầu đậu tương
US cent/lb
43,08
+0,03
+0,07%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
479,30
-0,60
-0,13%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.981,00
-15,00
-0,50%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
195,05
-12,35
-5,95%
Đường thô
US cent/lb
17,47
+0,15
+0,87%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
164,45
+1,30
+0,80%
Bông
US cent/lb
91,59
+0,30
+0,33%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.027,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
326,00
+1,80
+0,56%
Cao su TOCOM
JPY/kg
219,20
+3,70
+1,72%
Ethanol CME
USD/gallon
2,14
-0,06
-2,50%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg