Diễn biến giá hạt tiêu tại một số vùng nguyên liệu
Tỉnh
/huyện (khu vực khảo sát)
|
Giá thu mua
Đơn vị: VNĐ/kg
|
Đắk Lắk
|
|
— Ea H'leo
|
76.500
|
Gia Lai
|
|
— Chư Sê
|
74.000
|
Đắk Nông
|
|
— Gia Nghĩa
|
76.500
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
|
— Giá trung bình
|
79.000
|
Bình Phước
|
|
— Giá trung bình
|
78.000
|
Đồng Nai
|
|
— Giá trung bình
|
74.000
|
tintaynguyen.com
Theo dự báo của Hiệp hội Hạt tiêu Việt Nam (VPA), sản lượng tiêu của Việt Nam - quốc gia chiếm tới một nửa nguồn cung tiêu trên toàn thế giới - giảm khoảng 25% do ảnh hưởng bởi thời tiết và diện tích trồng bị co hẹp do giá thấp, người dân bỏ vườn.
VPA cũng nhận định, với tình hình cước tăng liên tục và không có chiều hướng giảm như hiện nay, ngành hàng hạt tiêu Việt Nam sẽ mất khả năng cạnh tranh ở thị trường Mỹ. Các nhà nhập khẩu đã có sự chuyển dịch cơ cấu nguồn cung hạt tiêu sang các nhà cung cấp Indonesia, Malaysia, Sri Lanka, Campuchia.
Tại thị trường thế giới, giá tiêu giao ngay trên sàn Kochi - Ấn Độ ổn định tại 41.300 rupee/tạ, theo nguồn giatieu.com.
Giá hạt tiêu (sàn Kochi - Ấn Độ)
Kỳ hạn
|
Giá khớp
|
Thay đổi
|
%
|
Số lượng
|
Cao nhất
|
Thấp nhất
|
Mở cửa
|
Hôm trước
|
HĐ Mở
|
GIAO NGAY
|
41300
|
0
|
0
|
0
|
41333,35
|
41300
|
41333,35
|
41333,35
|
0
|
06/21
|
39250
|
0
|
71,00
|
0
|
39250
|
37500
|
37500
|
39250
|
0
|
giatieu.com
Tỷ giá tính chéo của đồng Việt Nam đối với đồng rupee Ấn Độ (INR) từ ngày 26/8/2021 đến ngày 01/9/2021 được Ngân hàng Nhà nước áp dụng tính thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu là 312,08 VND/INR, nguồn Cổng Thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Theo số liệu của Văn phòng Thống kê Liên minh châu Âu (Eurostat), nhập khẩu hạt tiêu của Liên minh châu Âu (EU) trong giai đoạn 2016 – 2019 đã tăng 10 nghìn tấn từ 90,6 nghìn tấn lên hơn 100 nghìn tấn. Sang năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, nhu cầu nhập khẩu hạt tiêu của EU sụt giảm nhẹ từ 2,3% - 2,4% do tác động của đại dịch Covid-19.
Việt Nam và Brazil là hai thị trường cung cấp hạt tiêu lớn nhất cho EU trong 5 tháng đầu năm 2021 với khối lượng đạt lần lượt là 11,5 nghìn tấn và 8,6 nghìn tấn, giảm 9,4% và 5,2% so với cùng kỳ.
Nguồn:VITIC