Hiện giá cà phê robusta đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm, khoảng 2.120 USD/tấn, trong khi arabica cao nhất trong vòng nhiều tháng, 1,922 USD/lb.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2021/22 sẽ giảm 11,0 triệu bao (khoảng 7%) so với năm trước xuống 164,8 triệu, chủ yếu do ảnh hưởng của những đợt hạn hán và băng giá đối với vụ mùa của Brazil khi cây cà phê Arabica bước vào năm cuối của chu kỳ cho năng suất cao hai năm một lần.
Do sản lượng giảm, tồn kho cà phê cuối niên vụ dự kiến sẽ giảm 7,9 triệu bao xuống 32,0 triệu bao. Xuất khẩu hạt cà phê trên thế giới dự kiến giảm 4,8 triệu bao xuống 115,5 triệu bao do lượng xuất khẩu của Brazil giảm nhiều hơn, mặc dù xuất khẩu của Việt Nam dự báo tăng.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ tăng sau giai đoạn phong tỏa chống Covid-19 sẽ hỗ trợ tích cực cho giá cà phê toàn cầu trong thời gian tới. tiêu thụ toàn cầu dự báo sẽ tăng 1,8 triệu bao lên 165,0 triệu bao, với mức tăng lớn nhất ở Liên minh châu Âu, Mỹ và Brazil.
Nhập khẩu cà phê của Liên minh châu Âu (EU) niên vụ 2021/22 được dự báo sẽ giảm 2,5 triệu bao xuống 42,5 triệu và chiếm gần 40% nhập khẩu cà phê hạt của toàn thế giới. Các nhà cung cấp hàng đầu cho EU bao gồm Brazil (34%), Việt Nam (24%), Honduras (8%) và Colombia (6%). Dự trữ cuối kỳ dự kiến sẽ giảm 2,1 triệu bao xuống 14,0 triệu bao để duy trì mức tăng khiêm tốn trong tiêu thụ.
Mỹ là thị trường nhập khẩu cà phê nhân lớn thứ hai thế giới, với tổng khối lượng dự báo giảm 300.000 bao xuống 24,2 triệu bao. Các nhà cung cấp hàng đầu cho Mỹ bao gồm Brazil (30%), Colombia (21%), Việt Nam (11%) và Nicaragua (5%). Dự trữ cuối kỳ được dự báo sẽ giảm 700.000 bao xuống còn 5,7 triệu bao.
Một số thị trường sản xuất và xuất khẩu cà phê chủ chốt
Sản lượng arabica của Brazil niên vụ 2021/22 được dự báo sẽ giảm 14,7 triệu bao so với niên vụ trước xuống 35,0 triệu bao do sự kết hợp của nhiều yếu tố. Phần lớn các khu vực sản xuất đang ở trong năm cuối của chu kỳ sản xuất hai năm một lần, dẫn đến khả năng sản lượng trong vụ sắp tới sẽ ít đi. Ngoài ra, các điều kiện thời tiết bất lợi đã làm giảm năng suất, ban đầu là hạn hán và nhiệt độ cao ở các vùng trồng cà phê chính đã ảnh hưởng đến sự ra hoa cũng như đậu trái và phát triển, tiếp đến là nhiều đợt băng giá nghiêm trọng làm chết cây cà phê. Cũng có thông tin cho rằng nhiều người trồng cà phê tỉa bớt cành với tỷ lệ trên mức trung bình, do đó làm giảm năng suất. Phần lớn vụ thu hoạch Arabica bắt đầu vào tháng Năm và tháng Sáu.
Vụ thu hoạch Robusta của Brazil dự báo sẽ tiếp tục mở rộng để đạt mức kỷ lục 21,3 triệu bao, tăng 1,1 triệu bao so với niên vụ trước. Lượng mưa tốt đã hỗ trợ sự phát triển của trái robusta ở các bang sản xuất chính là Espirito Santo, Rondonia và Bahia. Hầu hết vụ thu hoạch Robusta bắt đầu vào tháng Tư và tháng Năm.
Tính chung tổng sản lượng cà phê Brazil (gồm cả Arabica và Robusta), sản lượng niên vụ 2021/22 dự báo giảm 13,6 triệu bao xuống 56,3 triệu bao. Mặc dù sản lượng giảm, tiêu thụ nội địa dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên mức kỷ lục 23,7 triệu bao. Với nguồn cung giảm, xuất khẩu cà phê từ nước này dự kiến sẽ giảm 9,0 triệu bao xuống 32,0 triệu và tồn kho cuối niên vụ dự báo giảm 2,5 triệu bao xuống 1,5 triệu bao.
Sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2021/22 được USDA dự báo sẽ phục hồi 1,8 triệu bao lên 30,8 triệu bao, sau đợt khô hạn nghiêm trọng trong niên vụ trước. Với việc Robusta chiếm hơn 95% tổng sản lượng và giá Robusta có xu hướng cao hơn trong 12 tháng qua, nhiều người trồng cà phê Việt Nam đã có động lực để tăng năng suất bằng cách chấp nhận tốn kém hơn để tưới tiêu cho cây cà phê trong mùa khô, thường kéo dài từ tháng Một đến tháng Ba. Nông dân tiếp tục trồng xen cà phê với các loại trái cây như bơ, sầu riêng để tăng thu nhập. Xuất khẩu cà phê Việt Nam được dự báo sẽ tăng 3,0 triệu bao lên 26,0 triệu bao, trong khi tồn trữ sẽ giảm nhẹ.
Sản lượng cà phê Arabica của Colombia niên vụ 2021/22 dự báo giảm 200.000 bao xuống 14,1 triệu bao do điều kiện tăng trưởng thuận lợi. Liên đoàn Quốc gia những người trồng cà phê Colombia (FEDECAFE) ước tính gần 85% diện tích cà phê hiện được trồng bằng các giống kháng bệnh gỉ sắt, so với chỉ 35% vào năm 2008/09, khi điều kiện thời tiết bất lợi khiến bệnh gỉ sắt sinh sôi, làm giảm 1/3 sản lượng. Kể từ đó, sản lượng đã tăng khoảng 30%, phần lớn nhờ chương trình cải tạo thay thế những cây già cỗi, năng suất thấp hơn bằng những giống kháng bệnh gỉ sắt. Chương trình này cũng giúp giảm tuổi trung bình của cây cà phê từ 15 xuống 6,9 năm, giúp tăng năng suất hơn nữa. Xuất khẩu cà phê Colombia dự báo giảm 100.000 bao xuống 12,4 triệu bao.
Sản lượng của Indonesia vụ 2021/22 được dự báo sẽ giảm nhẹ 100.000 bao xuống 10,6 triệu bao, với phần lớn mức giảm rơi vào loại Robusta. Sản lượng Robusta dự kiến đạt gần 9,4 triệu bao với điều kiện phát triển nhìn chung thuận lợi ở các vùng đất thấp của Nam Sumatra và Java, nơi trồng khoảng 75% tổng diện tích Robusta. Mưa lớn ở phía bắc Sumatra, nơi có khoảng 60% sản lượng Arabica, dự kiến sẽ làm giảm năng suất, khiến sản lượng giảm nhẹ xuống gần 1,3 triệu bao. Tồn trữ cà phê Indonesia cuối vụ dự kiến sẽ giảm một nửa xuống chỉ còn 900.000 bao do tiêu thụ nội địa và xuất khẩu đều tăng mạnh.
Sản lượng cà phê Ấn Độ được dự báo sẽ tăng thêm 300.000 bao lên 5,4 triệu bao do sản lượng Robusta tăng ở Karnataka, Bang sản xuất cà phê lớn nhất nước này. Sản lượng Arabica dự báo sẽ giảm nhẹ do bước vào năm cuối của chu kỳ hai năm một lần. Xuất khẩu cà phê Ấn Độ dự báo không đổi ở mức 3,7 triệu bao.
Tổng sản lượng cà phê của Trung Mỹ và Mexico được dự báo giảm nhẹ 400.000 bao xuống 17,4 triệu bao, trong đó của Guatemala, Nicaragua và Mexico dự báo sẽ tăng nhẹ, song của Honduras dự báo giảm 700.000 bao xuống 5,5 triệu. Honduras là nhà sản xuất hàng đầu trong khu vực, chiếm khoảng 1/3 sản lượng. Không may là điều kiện thời tiết sau cơn bão Eta và Iota đã khiến bệnh gỉ sắt ở lá ở các vườn cà phê Honduras tăng từ mức thấp một con số lên 15‐25%, tùy thuộc vào khu vực, làm giảm năng suất. Xuất khẩu cà phê của khu vực này dự báo sẽ giảm 300.000 bao xuống 14,4 triệu bao chủ yếu do nguồn cung có thể xuất khẩu ở Honduras giảm. Gần một nửa xuất khẩu của khu vực được dành cho Liên minh Châu Âu, tiếp theo là khoảng một phần ba đến thị trường Mỹ.
Ethiopia được dự báo sẽ sản xuất 7,6 triệu bao à phê Arabica trong niên vụ 2021/22 và là nhà sản xuất Arabica lớn thứ ba thế giới sau Brazil và Colombia. Sản xuất cà phê đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Ethiopia và khoảng 15 triệu người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào ngành này. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 800 triệu USD và chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các quỹ này đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế vì đồng Birr của Ethiopia không phải là một loại tiền tệ có thể chuyển đổi nên cần có USD cho các giao dịch liên quan đến nhập khẩu và các nghĩa vụ nợ nước ngoài khác.
Nguồn:VITIC / USDA