menu search
Đóng menu
Đóng

Tăng cường xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc

09:44 06/08/2012

Thị trường Trung Quốc ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với thị trường Việt Nam. Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều của Việt Nam-Trung Quốc đã tăng với tốc độ rất nhanh.
 
 

(VINANET) -Thị trường Trung Quốc ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với thị trường Việt Nam. Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều của Việt Nam-Trung Quốc đã tăng với tốc độ rất nhanh.

Năm 1991, thương mại hai bên mới chỉ đạt 37,7 triệu USD thì đến năm 2008, kim ngạch đã tăng lên tới 20,188 tỷ USD (tăng 535 lần trong 18 năm). Kể từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc đã liên tục trở thành đối tác thương mại số 1 của Việt Nam.

Buôn bán với Trung Quốc chiếm khoảng 14,07% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, trong khi đó Việt Nam chỉ chiếm 0,78% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc.

Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm 7,2% tổng xuất khẩu của Việt Nam nhưng chỉ chiếm chưa đầy 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc chiếm tới 19,3% thị phần nhập khẩu của Việt Nam và 1,38% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc.

Theo số liệu thống kê của TCHQ Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam đã thu về 6,1 tỉ USD từ thị trường Trung Quốc, tăng 33,28% so với 6 tháng 2011, tính riêng tháng 6/2012, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này lại giảm so với tháng liền kề trước đó, giảm 12,48%, tương đương với trên 1 tỷ USD.

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể chia thành 3 nhóm hàng chính gồm nhóm hàng nguyên, nhiên liệu và khoáng sản; nhóm hàng nông sản, thủy sản; nhóm hàng công nghiệp.

Đối với nhóm hàng công nghiệp, thì mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, đạt kim ngạch cao nhất trong 6 tháng 2012, chiếm 14,2% tỷ trọng, tăng 225,96% so với cùng kỳ năm trước, tương đương với 870,6 triệu USD. Tính riêng tháng 6/2012, mặt hàng này xuất khẩu sang Trung Quốc lại giảm 22,63% so với tháng 5/2012.

Nhóm hàng nông sản, điển hình là mặt hàng sắn và sản phẩm từ sắn đạt kim ngạch trong tháng 6 là 98,4 triệu USD, nhưng so với tháng liền kề trước đó giảm 27,53%. Tính chung 6 tháng năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu 709 triệu USD, tăng 33,1% so với 6 tháng 2011. Đứng sau mặt hàng sắn và sản phẩm là cao su với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 6 đạt 50,7 triệu USD, giảm 59,09% so với tháng 5, tính chung 6 tháng thì Việt Nam đã xuất khẩu 576,2 triệu USD mặt hàng cao su sang Trung Quốc, giảm 21,72% so với cùng kỳ năm trước….

Một số mặt hàng mới đã thâm nhập được thị trường Trung Quốc và đạt kim ngạch đáng kể, có mức tăng trưởng cao trong những năm qua. Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu truyền thống đã có thêm các sản phẩm mới xuất khẩu như sản phẩm chế biến từ ngũ cốc và bánh kẹo; sản phẩm chế biến từ trái cây; các sản phẩm chế biến từ thủy sản; sữa và các sản phẩm sữa...

Các sản phẩm mới này tuy kim ngạch còn thấp, song đã thể hiện một xu hướng đổi mới trong cơ cấu hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, đó là các sản phẩm chế biến đã dần xuất hiện, chứng tỏ sự nghiên cứu đầu tư phát triển đúng hướng của doanh nghiệp Việt Nam.

Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc 6 tháng 2012

ĐVT: USD

 

KNXK T6/2012

KNXK 6T/2012

KNXK 6T/2011

% +/- KN so T5/2012

% +/- KN so cùng kỳ

Tổng kim ngạch

1.034.245.043

6.114.990.082

4.588.168.098

-12,48

33,28

máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

140.841.463

870.626.779

267.099.837

-22,63

225,96

sắn và các sản phẩm từ sắn

98.475.673

709.078.172

532.728.731

-27,53

33,10

cao su

50.730.136

576.203.714

736.086.474

-59,09

-21,72

dầu thô

115.929.336

513.041.565

286.496.319

52,54

79,07

Gạo

78.935.972

459.493.394

108.589.901

-7,92

323,15

than đá

64.044.636

419.618.464

522.968.629

-32,21

-19,76

gỗ và sản phẩm gỗ

56.028.477

356.060.187

288.480.689

-31,61

23,43

xăng dầu các loại

48.926.936

327.117.022

299.219.233

-6,57

9,32

Xơ sợi các loại

53.872.144

289.477.854

238.451.716

-2,08

21,40

máy móc, thiết bị phụ tùng khác

28.733.223

168.330.672

121.252.907

-0,43

38,83

giày dép các loại

23.500.830

153.794.711

105.279.219

-10,05

46,08

hạt điều

21.634.256

121.832.272

109.812.738

-11,06

10,95

hàng thủy sản

19.058.095

109.525.768

103.123.169

-19,26

6,21

hàng dệt, may

20.543.514

95.327.733

67.454.363

28,68

41,32

hàng rau quả

26.130.678

90.500.018

54.601.934

87,14

65,75

quặng và khoáng sản khác

41.944.563

87.932.931

65.202.982

250,86

34,86

cà phê

13.161.537

61.835.755

38.923.905

40,89

58,86

chất dẻo nguyên liệu

5.867.488

55.337.616

9.753.931

-50,02

467,34

Phương tiện vân tải và phụ tùng

10.550.767

54.664.711

32.888.301

14,96

66,21

Điện thoại các loại và linh kiện

24.020.871

54.198.296

32.588.785

182,19

66,31

sản phẩm từ cao su

3.545.843

37.607.521

33.529.011

-25,50

12,16

dây điện và dây cáp điện

4.173.715

35.758.701

20.667.897

-34,37

73,02

sản phẩm hóa chất

7.434.098

32.918.334

31.088.911

28,56

5,88

hóa chất

2.679.908

18.411.855

10.083.791

-26,03

82,59

Kim loại thường khác và sản phẩm

2.694.984

16.329.011

15.574.706

-0,67

4,84

túi xách, ví, vali, mũ và ô dù

2.787.328

15.994.087

10.073.139

-9,38

58,78

bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

2.052.689

14.457.363

14.749.376

-13,75

-1,98

sản phẩm từ sắt thép

2.348.162

14.158.723

7.829.957

-2,02

80,83

sản phẩm từ chất dẻo

2.543.160

12.772.626

9.202.517

1,24

38,79

thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

3.997.200

10.525.741

30.531.740

33,69

-65,53

chè

1.937.429

9.291.499

6.558.297

0,57

41,68

sắt thép các loại

1.338.092

7.661.238

52.903.352

-88,46

-85,52

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

199.072

4.462.541

2.105.655

13,63

111,93

giấy và các sản phẩm từ giấy

399.252

2.201.903

2.815.216

9,02

-21,79

đá quý,kim loại quý và sản phẩm

 

1.414.124

1.478.485

*

-4,35

sản phẩm gốm, sứ

247.485

1.180.523

688.209

8,53

71,54

Vụ trưởng Vụ xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng, lâu nay xuất khẩu của Việt Nam chỉ là bán những gì chúng ta có, chứ chưa làm được việc xuất những gì Trung Quốc cần, do vậy chúng ta có thể mua hàng hóa của nước thứ ba rồi tái xuất cho Trung Quốc. Ngoài ra, cũng khuyến cáo doanh nghiệp nên chuyển đổi thương mại với Trung Quốc sang hình thức làm ăn theo đường chính ngạch, vừa tăng kim ngạch vừa giảm rủi ro.

Xuất khẩu sang Trung Quốc chưa được như mong muốn một phần là do hạ tầng phục vụ cho thương mại tại các tỉnh biên giới phía Bắc còn yếu, đặc biệt là giao thông, vận tải, kho bãi, bảo quản, đóng gói... Do đó, hướng đề xuất với Chính phủ là tạo thuận lợi cho đầu tư các loại hình khu hợp tác kinh tế biên giới, quy hoạch hệ thống cửa khẩu, chợ biên giới để tạo thêm động lực và sự yên tâm cho các nhà đầu tư.

Để giảm nhập siêu và tăng xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, theo các chuyên gia, DN cần nắm bắt các đặc điểm đang tác động đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc, rồi tìm ra hướng đi riêng cho mình trong chọn lựa mặt hàng xuất khẩu.

Thời gian gần đây, nền kinh tế Trung Quốc lại đang có dấu hiệu tăng trưởng chậm, GDP năm 2011 tăng 9,2%, mục tiêu 2012 chỉ tăng 7,5%; đồng thời có chủ trương giảm độ nóng của sự tăng trưởng để duy trì mức phát triển bền vững nên thị trường đang thắt chặt chi tiêu công và tiêu dùng cá nhân. Từ đó cho thấy thời gian tới mãi lực thị trường Trung Quốc sẽ giảm.

Với các đặc điểm tác động đến thị trường trên, vì thế theo các chuyên gia, để tăng xuất hàng sang Trung Quốc, DN nên tái cấu trúc lại cơ cấu hàng xuất sang Trung Quốc hợp với tình hình mới và tăng sức cạnh tranh cho chủng loại hàng hóa đó.  

Để tái cơ cấu lại hàng xuất sang Trung Quốc. DN nên tìm những mặt hàng đặc thù làm lợi thế riêng nhằm khai thác tốt các phân khúc thị trường phù hợp ở Trung Quốc.

DN nên nghiên cứu lĩnh vực hàng hóa Trung Quốc đang nhập và không xuất trở lại, rồi tìm cơ cấu hàng trong nước có khả năng đáp ứng để tăng đầu tư chế biến xuất sang. Sau đó, DN có thể kêu gọi Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ riêng cho các mặt hàng này song phải hợp với các tiêu chí trong WTO, ACFTA.

Nhiều DN chế biến hàng lương thực thực phẩm thành công tại thị trường Trung Quốc cũng cho rằng, về tổng quan, sản phẩm Việt Nam còn khoảng cách tụt hậu xa so Trung Quốc, không chỉ về công nghệ mà cả về đầu tư giá trị gia tăng sau chế biến. Trong cơ cấu chủng loại hàng hóa sản xuất của Việt Nam, hầu hết đều giống hàng Trung Quốc như nhựa, giày dép, may mặc, vật liệu xây dựng... nên khả năng cạnh tranh không cao. Vì thế, DN nên chọn tập trung vào những sản phẩm đã qua chế biến sâu mà Việt Nam có thế mạnh về nguyên liệu trong khi Trung Quốc không có, hoặc rất hiếm. Ví dụ như Vinamit đứng vững được ở thị trường Trung Quốc do Trung Quốc không có nguyên liệu cho các loại trái cây làm nguyên liệu như Vinamit.

Khi đã chọn được sản phẩm thích ứng với một phân khúc thị trường Trung Quốc, DN cũng phải tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm về giá, chất lượng, mẫu mã…, tăng hiệu quả hoạt động của kênh phân phối, xây dựng thương hiệu và tích cực trong các hoạt động xúc tiến thương mại. Để tạo được kênh phân phối hữu hiệu tại Trung Quốc, DN có thể hợp tác với hệ thống phân phối Trung Quốc. Cách này rất hiệu quả do DN trong nước thường không đủ tiềm lực để quảng bá sản phẩm trên một đất nước quá rộng, quá nhiều phân khúc thị trường. Hiện Trung Quốc có gần 1 triệu siêu thị và cửa hàng tiện lợi. Tuy nhiên, dù là thị trường rộng lớn và là cơ hội, nhưng trước khi đầu tư sang Trung Quốc, DN nên tìm hiểu kỹ luật lệ kinh doanh, đối tác và phải đăng ký nhãn hiệu sản phẩm. Điều cần chú trọng là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì đây đang là vấn đề lớn mà Trung Quốc đang tập trung để giải quyết nhằm lấy lại uy tín ở trong nước và trên thế giới.

Nguồn:Vinanet