menu search
Đóng menu
Đóng

Thị trường xuất khẩu năm 2009, khả năng bị thu hẹp

08:21 29/09/2008
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 19/9/2008, kim ngạch xuất khẩu của cả nước ước đạt 48,575 tyUSD, tăng 39% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, từ cuối tháng 8 đến nay đã xuất hiện những yếu tố đáng lo ngại về khả năng duy trì mức tăng trưởng cao trong 4 tháng cuối năm và cả năm 2009.

Theo Bộ Công thương, trong số những nhóm hàng, ngành hàng xuất khẩu quan trọng thì có tới 2 nhóm hàng nông lâm hải sản và nhóm khoáng sản có sự tăng trưởng về lượng trong lúc giá thế giới lại đang xuống rất mạnh. Sản lượng gạo có thể tăng thêm 1 triệu tấn nhưng giá gạo thế giới đang giảm mạnh, thậm chí chỉ còn một nửa. Trong 9 tháng bình quân giá xuất có thể đạt gần 700 USD nhưng bình quân giá những tháng cuối năm có thể chỉ 450-500 USD/tấn. Cà phê, hạt tiêu đã không tăng về lượng lại đang chững về giá. Mặt hàng thuỷ sản đang khó lưu thông do doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất và giá bán cũng đang xuống. Đối với mặt hàng khoáng sản, dầu thô đạt khoảng 10,1 triệu tấn trong 9 tháng qua mới chỉ ước chừng hơn 60% kế hoạch. Trong khi đó, thời gian chỉ còn lại là 3 tháng mà phải gánh gần 40% kế hoạch và vào mùa khó khai thác. Giá dầu thô thế giới hiện đã giảm 20% so với lúc cao nhất và đang tiếp tục giảm. Như vậy, hy vọng tăng trưởng xuất khẩu chỉ còn trông vào nhóm hàng công nghiệp đang vào vụ mùa xuất khẩu chính.

Tuy nhiên, một số mặt hàng công nghiệp được kỳ vọng tăng trưởng mạnh thì đang chững lại. Hàng điện tử, máy tính trong 9 tháng qua chỉ đạt 1,89 tỷ USD so với kế hoạch 3,2 tỷ USD năm nay. Như vậy, 3 tháng còn lại của mỗi tháng phải thực hiện tới 430 triệu USD, trong khi mức trung bình từ đầu năm đến nay chỉ khoảng 230 triệu USD. Dây cáp điện 9 tháng cũng chỉ đạt 50% kế hoạch, sản phẩm gỗ cả năm dự kiến 3 tỷ USD thì 9 tháng mới đạt hơn 2 tỷ USD. Duy chỉ có dệt may là nhiều khả năng vượt chỉ tiêu 9,5 tỷ USD. Tính chung, trong tháng 9 có 16/25 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt mức thực hiện thấp hơn so với tháng trước, khiến tổng giá trị thực hiện của tháng 9 thấp hơn 718 triệu USD so với tháng 8.

Bên cạnh đó, trong 9 tháng có một số mặt hàng “bị” xuất khẩu mà những tháng cuối năm không thể tái diễn. Trong 7 tháng đầu năm các doanh nghiệp xuất hơn 1 tỷ USD thép và phôi thép nhưng chấm dứt từ cuối thang s8 và sẽ kéo dài tình trạng này đến cuối năm do giá phôi thép trên thế giới liên tục hạ và chúng ta đang phải tiếp tục nhập phôi, thép phục vụ nhu cầu trong nước. Phân bón, vàng cũng trong hoàn cảnh tương tự nên những hiện tượng này sẽ khong lặp lại vào những tháng cuối năm, gây hụt về kim ngạch xuất khẩu.

Ngoài ra, một loạt khó khăn cho sản xuất xuất khẩu chậm được khắc phục. Đó là vấn đề thiếu điện cho sản xuất, lãi suất vay vốn cao quá mức chịu đựng của các doanh nghiệp, là những ách tắc trong vận tải biển... những khó khăn đó chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 9 tháng đạt tới 39%, là mức kỷ lục trong nhiều năm qua nhưng nếu không nỗ lực dồn sức, tháo gỡ các khó khăn trong sản xuất lưu thông thì việc thực hiện mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 65 tỷ USD trong năm nay vẫn khó mà hoàn thành.

Theo dự báo của các chuyên gia, tình hình trên sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009 khi nguy cơ thị trường xuất khẩu xuất khẩu của Việt Nam có khả năng bị thu hẹp. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này, vốn là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Bên cạnh đó, da giầy đang gặp khó khăn do EU thôi cấp ưu đãi, mặt hàng than đá đang được tổ chức quản lý lại và con số 32 triệu tấn than xuất khẩu của năm trước đã khép lại những năm xuất than nhộn nhịp của Việt Nam...

Thế nên, dù năm 2009 chưa tới nhưng “gánh nặng” tăng trưởng năm sau luôn cao hơn năm trước dường như dã dồn vào những người điều hành xuất khẩu. Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, sức nặng này sẽ còn nặng hơn trong những năm tiếp theo nếu ngành xuất khẩu của Việt Nam không thay đổi cơ cấu xuất khẩu.

Hiện nay, cơ cấu xuất khẩu chủ lực của Việt Nam dựa vào 3 nhóm hàng chính: nông-thuỷ sản (chủ yếu chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế), khoáng sản và công nghiệp. Trong đó, lượng xuất khẩu nôn-thuỷ sản và khoáng sản đã đến ngưỡng, còn hàng công nghiệp chủ yếu là gia công, giá trị gia tăng trên các mặt hàng này thấp, khoảng 25% trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, bài toán tăng số ngoại tệ thu về hiệu quả nhất của ngành xuất khẩu hiện nay và trong tương lai không phải là tăng số lượng mà là tăng tỷ trọng nội địa hoá và hàm lượng công nghệ trên sản phẩm cũng như tỷ trọng hàng công nghệ trong cơ cấu xuất khẩu.

Tuy nhiên, bài toán này đã được đặt ra cả thập niên nhưng vẫn không được giải quyết. Các doanh nghiệp còn quá thờ ơ với việc nâng cao chất lượng công nghệ, tỷ lệ đầu tư cho lĩnh vực này của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với 5% ở Ấn Độ và 10% ở Hàn Quốc. Do đó, sau nhiều năm chật vật, tỷ trọng hàng Việt Nam xuất khẩu đa qua chế biến, cho dù còn thô sơ, cũng mới chỉ dừng lại ở mức gần 40% tổng lượng hàng xuất. Doanh thu xuất khẩu hàng dệt may gần 10 tỷ USD thế nhưng gần 70% giá trị đó thuộc về công ty đặt hàng ở nước ngoài. Mặt hàng giày dép, điện tử, gỗ cũng trong tình trạng tương tự khi phải phụ thuộc tới 70-80% nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, thậm chí hơn 90% như ngành công nghiệp ôtô. Trong khi đó, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ vẫn cứ mãi đì đẹt và không biết tới bao giờ mới có thể bứt phá lên được, mặc dù ai cũng biết các ngành công nghiệp phụ trợ là thành phần quan trọng để công nghiệp hoá, đẩy mạnh các ngành trọng điểm đồng thời tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

 

Nguồn:Thông tấn xã Việt Nam