Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc tổng hợp kim ngạch xuất nhập khẩu trong 8 tháng năm 2010.
Theo số liệu công bố của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, trong 8 tháng đầu năm nay tổng kim ngạch XNK của Trung Quốc đạt 1.875,58 tỷ USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, XK đạt 989,74 tỷ USD, tăng 35,5%; NK đạt 885,84 tỷ USD, tăng 45,5%; Thặng dư thương mại đạt 103,9 tỷ USD, giảm 14,6%.
Trong tháng 8, kim ngạch XNK của Trung Quốc đạt 258,57 tỷ USD, tăng 34,7%. Trong đó, XK đạt 139,3 tỷ USD, tăng 34,4%, tốc độ giảm 3,7 điểm % so với tháng 7; NK đạt 119,27 tỷ USD, tăng 35,2%, tốc độ tăng 12,5 điểm % so với tháng 7; Thặng dư thương mại của tháng đạt 20,03 tỷ USD, giảm 30,4% so với tháng 7.
So với 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch XNK trong 8 tháng đầu năm nay tăng 8,7%; XK tăng 5,4% và NK tăng 12,7%. Trong đó, kim ngạch XNK của tháng 8 năm nay tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó XK tăng 2,9% và NK tăng 12,5%.
Trong 8 tháng đầu năm nay, kim ngạch XNK mậu dịch thông thường đạt 939,99 tỷ USD, tăng 43,3%, tốc độ tăng 3,3 điểm % so với tốc độ tổng thể XNK của toàn quốc. Trong đó, XK đạt 454,18 tỷ USD, tăng 38,5%, tăng 3 điểm % so với tốc độ tổng thể XK của toàn quốc; NK đạt 485,81 tỷ USD, tăng 48,1%, tăng 2,6 điểm % so với tốc độ tổng thể NK của toàn quốc. Mậu dịch thông thường xuất hiện tình trạng thâm hụt thương mại với trị giá 31,63 tỷ USD, trong khi đó vào cùng kỳ của năm 2009 chỉ bị thâm hụt có 100 triệu USD. Cùng thời gian 8 tháng đầu năm, XNK mậu dịch gia công đạt 730,49 tỷ USD, tăng 34,8%. Thặng dư thương mại của mậu dịch gia công đạt 194,95 tỷ USD, tăng 21%, gấp 1,9 lần so với tổng thể thặng dư thương mại của cùng kỳ năm 2009.
Trong quan hệ thương mại song phương với các bạn hàng chủ yếu, trong 8 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với EU đạt 305,81 tỷ USD, tăng 36,2%. Tổng kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với Mỹ đạt 242,61 tỷ USD, tăng 32%. Tổng kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với Nhật Bản đạt 186,89 tỷ USD, tăng 34,8%. Trong đó, Trung Quốc XK sang Nhật Bản đạt 75,33 tỷ USD, tăng 25,5%; Trung Quốc NK từ Nhật Bản đạt 111,56 tỷ USD, tăng 41,9%; Trung Quốc nhập siêu từ Nhật Bản là 36,23 tỷ USD, tăng 94,8%. Tổng kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với ASEAN đạt 185,38 tỷ USD, tăng 47,2%. Trong đó, Trung Quốc XK sang ASEAN đạt 88,07 tỷ USD, tăng 40%; Trung Quốc NK từ ASEAN đạt 97,31 tỷ USD, tăng 54,4%; Trung Quốc nhập siêu từ ASEAN đạt 9,24 tỷ USD, trong khi đó vào cùng kỳ của năm 2009, con số nhập siêu của Trung Quốc chỉ là 110 triệu USD.
Tổng kim ngạch XNK giữa Trung Quốc với Việt Nam trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm nay đạt lần lượt là 2,46 tỷ USD và 17,83 tỷ USD, tăng lũy kế là 46,3%; Trong đó, Trung Quốc XK sang Việt Nam đạt lần lượt là 1,84 tỷ USD và 13,56 tỷ USD, tăng lũy kế là 46,6%; Trung Quốc NK từ Việt Nam đạt lần lượt là 0,62 tỷ USD và 4,26 tỷ USD, tăng lũy kế là 45,3%.Việt Nam thâm hụt thương mại là 9,3 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê của hải quan Trung Quốc, trong 8 tháng đầu năm nay, kim ngạch XNK của Quảng Đông đạt 485,59 tỷ USD, tăng 32,5%. Trong khi đó, kim ngạch XNK của Giang Tô, Thượng Hải và Chiết Giang đạt lần lượt là 295,72 tỷ USD, 235,59 tỷ USD và 194,97 tỷ USD, tăng trưởng lần lượt là 44,8%, 39,3% và 49,5%. Ngoài ra, kim ngạch XNK của Chiết Giang, Sơn Đông và Phúc Kiến đạt lần lượt là 163,48 tỷ USD, 118,76 tỷ USD và 69,18 tỷ USD, tăng trưởng lần lượt là 38,6%, 38,3% và 40,3%. Xét từ góc độ kim ngạch XK trong 8 tháng đầu năm, XK của Quảng Đông đạt 278,14 tỷ USD, tăng 28,6%; XK của Giang Tô, Chiết Giang và Thượng Hải đạt lần lượt là 170,14 tỷ USD, 116,24 tỷ USD và 115,52 tỷ USD, tăng trưởng lần lượt là 41,9%, 39,4% và 33,1%. Ngoài ra, XK của Sơn Đông, Phúc Kiến và Bắc Kinh đạt lần lượt là 65,21 tỷ USD, 45,71 tỷ USD và 35,91 tỷ USD, tăng trưởng lần lượt là 33,7%, 38,3% và 18,3%.
Trong các mặt hàng XK thì XK sản phẩm cơ điện giữ vị trí chủ đạo, XK các mặt hàng với số lượng lớn truyền thống có tốc độ tăng nhanh. Theo số liệu thống kê của hải quan Trung Quốc, XK mặt hàng cơ điện trong 8 tháng đầu năm đạt 581,46 tỷ USD, tăng 35,9%, tăng hơn 0,4 điểm % so với tốc độ tổng thể XK của Trung Quốc, chiếm 58,7% tổng giá trị XK của toàn quốc. Trong đó, XK mặt hàng điện khí và điện tử đạt 237,25 tỷ USD, tăng 34,6%; XK thiết bị máy móc đạt 195,34 tỷ USD, tăng 36,5%. Cũng trong thời gian này, tốc độ XK của một bộ phận hàng hóa có số lượng lớn truyền thống nói chung có phần tăng nhanh hơn so với 7 tháng đầu năm. Trong đó, XK hàng may mặc đạt 80,29 tỷ USD, tăng 19%, tốc độ tăng 1,6 điểm % so với 7 tháng đầu năm; XK dụng cụ gia đình đạt 21,2 tỷ USD, tăng 35,4%, tốc độ tăng 0,5 điểm % so với 7 tháng đầu năm; XK giày dép đạt 23,09 tỷ USD, tăng 26%, tăng 2,4 điểm % so với 7 tháng đầu năm; XK mặt hàng nhựa đạt 11,84 tỷ USD, tăng 31,5%, tăng 1,3 điểm % so với 7 tháng đầu năm; XK mặt hàng va ly, túi xách đạt 10,83 tỷ USD, tăng 34,8%, tăng 4,1 điểm % so với 7 tháng đầu năm; XK đồ chơi đạt 5,99 tỷ USD, tăng 31,7%, tăng 1,7 điểm % so với 7 tháng đầu năm; còn XK mặt hàng sợi và chế phẩm dệt đạt 49,51 tỷ USD, tăng 32,3%, tốc độ giảm 0,5 điểm % so với 7 tháng đầu năm.
Trong các mặt hàng NK thì NK mặt hàng quặng sắt đạt 410 triệu tấn, tăng nhẹ 0,1%, giá nhập khẩu bình quân là 118,6USD/tấn, tăng 55,1%; NK đậu tương đạt 35,53 triệu tấn, tăng 20%, giá nhập khẩu bình quân là 437,9USD/tấn, tăng 1,9%. Ngoài ra, NK sản phẩm cơ điện đạt 419,44 tỷ USD, tăng 42,3%, trong đó NK ô tô đạt 520.000 chiếc, tăng 1,4 lần so với cùng kỳ năm 2009.
Nguồn:Tin tham khảo