(VINANET) -Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gốm sứ trong tháng 7/2012, giảm 2,96% so với tháng liền kề trước đó, đạt 37,7 triệu USD, nhưng nếu tính chung 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu mặt hàng này tăng 22,62% so với cùng kỳ năm trước, tương đương với 241,5 triệu USD.
Mặt hàng gốm sứ của Việt Nam đã có mặt tại 18 nước trên thế giới, trong đó Nhật Bản là thị trường chính Việt Nam xuất khẩu mặt hàng, 7 tháng 2012, Việt Nam đã xuất khẩu 38 triệu USD sản phẩm gốm sứ, tăng 39,11% so với cùng kỳ năm trước. Tuy là thị trường chính xuất khẩu mặt hàng này, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ trong tháng 7 sang thị trường Nhật giảm 17% so với tháng 6/2012.
Đứng thứ hai là thị trường Đài Loan, lại có kim ngạch tăng trưởng trong tháng 7, tăng 25,68% so với tháng trước đó, đạt 6,2 triệu USD, nâng kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ sang Đài Loan 7 tháng đầu năm lên 30,8 triệu USD, tăng 44,61% so với cùng kỳ.
Ngoài hai thị trường chính kể trên, Việt nam còn xuất khẩu hàng gốm sứ sang các thị trường khác nữa như: Hoa Kỳ, Đức, Ôxtrâylia, Hàn Quốc, Pháp, Anh…
Nhìn chung, 7 tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam sang các thị trường trên thế giới không tăng trưởng, số thị trường có kim ngạch giảm chiếm 33,3% tỷ trọng.
Thị trường xuất khẩu sản phẩm gốm sứ tháng 7, 7 tháng 2012
ĐVT: USD
Được đánh giá là mặt hàng có tiềm năng lớn đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu cũng như nhiều lợi ích kinh tế - xã hội khác nhưng hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN)Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển và mở rộng thị trường. Do đó, một trong những yêu cầu hàng đầu hiện nay là tập trung để nâng cao sức cạnh tranh cho mặt hàng này.
Trong những năm qua, tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN), trang trí nội thất của Việt Nam có bước phát triển ấn tượng, kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng. Tuy vậy, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của ngành hàng có truyền thống lâu đời, bằng bàn tay khéo của nhiều thế hệ người lao động cần cù ở khắp các làng nghề từ Nam ra Bắc. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự hạn chế đó là khâu thiết kế kiểu dáng sản phẩm còn nhiều yếu kém. Sản phẩm tuy mang tính độc đáo nghệ thuật, nhưng thường chỉ là đơn chiếc, khả năng thích ứng và tính thương mại của sản phẩm chưa được chú ý, nên hầu như không có cơ hội nhận được những dơn hàng lớn.
Theo Hiệp hội TCMN Việt Nam, hàng TCMN của nước ta đã có mặt trên thị trường 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, với mức tăng trưởng xuất khẩu (XK) đạt hơn 20%/năm. Cả nước hiện có hơn 2.000 làng nghề, trong đó có những nghề đã phát triển từ hàng nghìn năm trước như đúc đồng, gốm, đan mây tre; cũng có nhiều nghề mới xuất hiện mấy chục năm gần đây như ren, dệt thảm, hoa lụa…
Nhiều làng nghề thủ công truyền thống đã để lại những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao như trống đồng, điêu khắc gỗ và đá, đồ gốm... đang được lưu giữ trong các đình, chùa, bảo tàng và sưu tập cá nhân.
Đánh giá của Hiệp hội TCMN cũng chỉ rõ, các sản phẩm TCMN mang lại hiệu quả kinh tế cao, có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới, vì nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm TCMN ở nhiều nước rất lớn. Chẳng hạn, ở Mỹ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 13 tỷ USD/năm, nhưng sản phẩm TCMN của Việt Nam chỉ chiếm 1,5%; EU: 7 tỷ USD (Việt Nam: 5,4%); Nhật Bản: 2,9 tỷ USD/năm (Việt Nam: 1,7
Đã có thực tế là ban đầu hàng TCMN của Việt Nam mới vào được thị trường, thường được ưa chuộng do sự mới lạ, giá rẻ. Nhưng qua một thời gian sự hấp dẫn đó giảm nhiều mà nguyên nhân chính là nhiều mẫu mã đã không được cải tiến. Hơn thế nữa, do khả năng tự thiết kế yếu, nên đã xuất hiện tình trạng phụ thuộc vào mẫu mã do nước ngoài đặt hàng, vô tình biến nền sản xuất TCMN của ta thành cơ sở gia công cho họ, rất bị động, phải qua trung gian, kết cục là chỉ thu được lợi nhuận ở phân kỳ thấp.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng TCMN Việt Nam, cần thiết phải có sự hỗ trợ, giúp doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường tiềm năng; nâng cao kiến thức, kỹ năng tiếp cận các xu hướng thiết kế sản phẩm phù hợp, từ đó nâng tầm và phát triển ý tưởng sáng tạo theo xu hướng thiết kế quốc tế, phù hợp với từng loại thị trường. Xác định được yêu cầu, tầm quan trọng của việc tạo dấu ấn về thương hiệu sản phẩm của riêng mình. Có kiến thức và sự hiểu biết về các yêu cầu cần thiết khi phát triển ý tưởng thiết kế, sáng tạo sản phẩm.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung nghiên cứu để phát triển các khả năng thiết kế sản phẩm và bán các sản phẩm mang thương hiệu của mình ra thương trường, thay vì chỉ làm theo đơn hàng gia công, đồng thời phát triển thương hiệu thiết kế riêng của Việt Nam. Theo đánh giá của một chuyên gia Nhật Bản, người Việt hoàn toàn có đủ khả năng để thiết kế ra các sản phẩm mang thương hiệu của mình nhưng cần học cách làm thế nào để nâng tầm và phát triển ý tưởng sáng tạo theo xu hướng thiết kế quốc tế...
Các doanh nghiệp cũng nên chủ động liên kết xây dựng cụm sản xuất TCMN, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh để đáp ứng được các đơn hàng lớn, xây dựng đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp biết nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của khách hàng; đào tạo, bồi dưỡng cho lực lượng lao động, phát huy tính sáng tạo của đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi, triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại...
Ngoài ra, trước nguy cơ thị trường tiêu thụ có thể bị thu hẹp, thiếu bền vững và tiềm ẩn nhiều rủi ro thì việc triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, làm cầu nối và đòn bẩy thúc đẩy sản xuất thủ công mỹ nghệ tiếp tục phát triển.
Cùng với nỗ lực của từng làng nghề, từng người dân, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng TCMN cũng rất cần sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách như hỗ trợ vốn đầu tư, tạo lập thể chế cho các làng nghề, xây dựng những khu sản xuất riêng, tạo cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ mặt hàng TCMN...
Nguồn:Vinanet