menu search
Đóng menu
Đóng

Bộ Công Thương tham dự Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII

08:52 16/12/2021

 
Sáng ngày 14/12/2021, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Lãnh đạo Bộ Công Thương tham dự Hội nghị theo hình thức trực tuyến tại điểm cầu trụ sở 54 Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Tại điểm cầu chính Hội trường Diên Hồng (Tòa Nhà Quốc hội), tham dự và chủ trì Hội nghị có các đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước; đồng chí Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Phạm Bình Minh - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự Hội nghị tại điểm cầu Hội trường Diên Hồng và có bài phát biểu tham luận.
Dự hội nghị tại các điểm cầu còn có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, các Tỉnh ủy, Thành ủy, Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương; lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội của Trung ương và địa phương, các Đại sứ và Tổng Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài; các đồng chí nguyên lãnh đạo: Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Liên hiệp các Hội hữu nghị Việt Nam.
Tại điểm cầu trụ sở cơ quan Bộ Công Thương, tham dự hội nghị có các đồng chí trong Ban Cán sự đảng Bộ Công Thương; các đồng chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Công Thương; các đồng chí chuyên trách công tác Đảng của Đảng ủy Bộ Công Thương; các đồng chí là thủ trưởng cấp vụ, cục và tương đương trực thuộc Bộ Công Thương...
Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc diễn ra sáng nay, thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh trình bày báo cáo về thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tập trung vào giai đoạn 5 năm vừa qua (2016 - 2021), từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, xác định phương hướng, nhiệm vụ ưu tiên để thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ, nâng tầm quan hệ với các đối tác
Theo Báo cáo, trong giai đoạn 2016-2021, Việt Nam đã xác lập thêm 6 khuôn khổ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện, nâng tổng số quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện lên 30 nước, qua đó, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với hầu hết các nước có vai trò và vị trí quan trọng trên thế giới. Nhiều nước coi Việt Nam là trọng tâm ưu tiên trong chính sách khu vực.
Kết quả trên tạo cho đất nước ta có vị thế đối ngoại thuận lợi nhất từ trước đến nay, góp phần giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, tranh thủ các nguồn lực để phát triển.
Đối ngoại Đảng đã góp phần tạo nền tảng chính trị và định hướng tổng thể cho việc ổn định, mở rộng và thắt chặt quan hệ song phương với các nước và các đối tác, qua đó góp phần làm gia tăng vị thế, uy tín của Đảng ta trên trường quốc tế, nâng cao nhận thức đúng đắn của quốc tế về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Hoạt động đối ngoại được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ trên tất cả các kênh, góp phần gia tăng hiểu biết, vun đắp tình cảm hữu nghị, củng cố nền tảng bền vững và môi trường chính trị thuận lợi chung cho quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác.
Trong đại dịch COVID-19, Việt Nam đã triển khai quyết liệt, kịp thời và hiệu quả công tác ngoại giao y tế/vaccine trên cả kênh song phương và đa phương. Đến nay, Việt Nam đã nhận được trên 151 triệu liều vaccine, đạt 100% mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào công tác phòng, chống dịch hiệu quả đi đôi với phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam cũng đã kịp thời viện trợ vật tư y tế và tài chính cho trên 50 quốc gia và tổ chức quốc tế, qua đó thể hiện rõ vai trò "thành viên có trách nhiệm" trong cộng đồng quốc tế.
Góp phần tạo dựng và duy trì vững chắc môi trường hoà bình, ổn định
Thực hiện đúng phương châm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI, đối ngoại đã góp phần quan trọng cùng quốc phòng và an ninh thực hiện nhiệm vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
Việt Nam đã ký kết và thực thi tốt các Hiệp định quản lý biên giới với Trung Quốc; đã hoàn thành công tác tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc quốc giới với Lào; ký kết 2 văn kiện công nhận 84% thành quả phân giới cắm mốc với Campuchia.
Đối ngoại cũng đã làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu cho Đảng và Nhà nước góp phần xử lý kịp thời các tình huống phức tạp, các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, trong đó có đại dịch COVID-19.
Đối ngoại đa phương và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng được đẩy mạnh, thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước.
Với thế và lực gia tăng trên trường quốc tế, chính sách đối ngoại tích cực, chủ động, Việt Nam đã từng bước chuyển từ tham gia tích cực sang chủ động đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương ở tầm khu vực và toàn cầu.
Đến nay, Việt Nam đã gia nhập và ký kết hơn 80 điều ước quốc tế đa phương; đã là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu; đã và đang tham gia hiệu quả vào xây dựng Cộng đồng ASEAN, đóng vai trò quan trọng trong củng cố đoàn kết nội khối, đẩy mạnh quan hệ của ASEAN với các đối tác.
Việt Nam tích cực tham gia vào hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc; đảm nhiệm tốt nhiều trọng trách tại các diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng khác; tham gia tích cực các diễn đàn đa phương nhân dân như Diễn đàn Nhân dân ASEAN, các cơ chế hợp tác thanh niên, luật sư, doanh nghiệp...
Hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế của các địa phương cũng có nhiều chuyển biến tích cực với hơn 420 thoả thuận quốc tế trong các lĩnh vực đã được ký kết, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Báo cáo đánh giá, nhìn chung, các nước đánh giá cao và mong muốn Việt Nam đóng vai trò lớn hơn trong các cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực.
Thu hút nguồn lực to lớn từ bên ngoài để phát triển đất nước
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 224 thị trường và đối tác; 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Với mạng lưới 15 FTA đã ký, Việt Nam là một trong số ít nước tham gia hầu hết các liên kết kinh tế quan trọng, trong đó các thị trường mà Việt Nam có FTA đều tăng trưởng xuất khẩu tốt.
Mạng lưới FTA cũng đưa Việt Nam tham gia sâu hơn và trở thành mắt xích ngày càng quan trọng trong chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Nhờ liên kết kinh tế sâu rộng, năm 2021, mặc dù kinh tế thế giới rất khó khăn, kim ngạch thương mại của Việt Nam vẫn vượt mốc 600 tỷ USD, vốn đầu tư nước ngoài đã ký từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới đến nay đạt khoảng 400 tỷ USD.
Bên cạnh đó, trong mười năm qua, công tác vận động kênh phi chính phủ nước ngoài thu hút viện trợ được 2,85 tỷ USD; các chương trình, dự án viện trợ phi chính phủ được triển khai ở 63 tỉnh thành cả nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết hậu quả chiến tranh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu...
Ngoại giao văn hoá, bảo hộ công dân được triển khai toàn diện, chủ động
Ngoại giao văn hoá và thông tin đối ngoại góp phần quan trọng nâng cao vị thế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Đề án "Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hoá kiệt xuất" được tích cực triển khai trên toàn thế giới.
Việt Nam đã vận động thành công UNESCO công nhận 44 danh hiệu/di sản (trong đó có 11 di sản trong 5 năm qua), tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của các địa phương, nâng cao hình ảnh và thương hiệu quốc gia.
Công tác bảo hộ công dân được triển khai đồng bộ và hiệu quả, xử lý kịp thời nhiều tình huống, vụ việc khẩn cấp và phức tạp chưa có tiền lệ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài.
Trong 5 năm qua, đã triển khai công tác bảo hộ đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ việc/1000 tàu/với gần 10.000 ngư dân; tổ chức trên 700 chuyến bay đưa trên 200.000 công dân về nước an toàn trong đại dịch COVID-19.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết 36, Chỉ thị 45 và gần đây là Kết luận 12 của Bộ Chính trị; khẳng định rõ chủ trương đại đoàn kết dân tộc, tình cảm, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời phát huy mạnh mẽ nguồn lực của kiều bào.
Cơ chế, chính sách liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được hoàn thiện, nhờ đó đã thu hút lượng lớn nguồn lực của kiều bào cho phát triển đất nước, hỗ trợ doanh nghiệp, trí thức, thanh niên kiều bào khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo; tích cực cải thiện địa vị pháp lý cho người Việt Nam ở ngoài nước, tạo thuận lợi cho bà con yên tâm sinh sống, học tập và làm việc ổn định, lâu dài.
Triển khai ngày càng đồng bộ trên tất cả các trụ cột
Công tác đối ngoại luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao; cũng như được sự quan tâm, ủng hộ của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai chủ động, tích cực, ngày càng đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, gắn kết ngày càng chặt chẽ.
Nhận thức và tư duy về đối ngoại được nâng cao và không ngừng đổi mới. Cơ chế chính sách về hội nhập quốc tế ngày càng hoàn thiện, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho công tác đối ngoại của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, cũng như cho hoạt động của các cơ quan đại diện nước ngoài.
Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ: Phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.
Trình bày tham luận tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Theo Bộ trưởng, chủ trương “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trong các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” được Đại hội XIII của Đảng đề ra, vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm góp phần hiện thực hóa tầm nhìn và định hướng phát triển đến năm 2045 đưa nước ta trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao.
Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế đối ngoại nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; “thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế; đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; đàm phán, ký kết và thực thi 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA). Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương. Về xuất, nhập khẩu, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề, chưa từng có của đại dịch Covid - 19, song kim ngạch xuất, nhập khẩu của nước ta năm 2020 vẫn đạt trên 545 tỷ USD, dự báo năm 2021 sẽ vượt mốc 660 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, như: Công tác phổ biến thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật sâu rộng ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương và trong cộng đồng doanh nghiệp; Phát triển kinh tế và thương mại quốc tế chủ yếu vẫn dựa vào các yếu tố bề rộng mà thiếu sự đóng góp đáng kể của các yếu tố chiều sâu như năng suất lao động, hàm lượng tri thức hay công nghệ. Đặc biệt, mặc dù thương mại và đầu tư tăng trưởng nhanh nhưng nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất vẫn lệ thuộc vào thị trường thế giới, chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước và các chuỗi cung ứng quốc tế quan trọng, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp có tính chất nền tảng, then chốt.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và kinh tế số đang là xu hướng phát triển mạnh mẽ, mang lại những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đan xen; đặc biệt, đại dịch Covid-19 được dự báo có thể còn diễn biến phức tạp, tác động bất lợi đến mọi mặt đời sống và xã hội.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng sẽ có những nội hàm mới, đó là: Sự độc lập, tự chủ trong quá trình mở cửa, hội nhập; thể hiện trước hết trong việc xác định đường lối hội nhập nhất quán, trên cơ sở thực lực của mình và bằng tư duy sáng tạo để có chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm xây dựng tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước trong mọi tình huống, vừa bảo đảm cho xuất khẩu; Tập trung xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trước hết là năng lực cạnh tranh công nghiệp, bởi có năng lực cạnh tranh thì nền kinh tế cũng như doanh nghiệp Việt Nam mới có thể đứng vững và hưởng lợi từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; Tiếp tục xây dựng, củng cố tạo môi trường đối ngoại ổn định, thiết lập và duy trì các quan hệ chặt chẽ về kinh tế, thương mại trên bình diện song phương và đa phương, nhằm tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế; Chủ động tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý, khoa học công nghệ và thị trường quốc tế để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; Tích cực tham gia vào các khuôn khổ quốc tế nhằm tác động, thiết lập, củng cố các quy tắc, luật lệ về kinh tế thương mại có lợi hoặc ít nhất là hạn chế các tác động bất lợi cho Việt Nam trong các khuôn khổ kinh tế, thương mại song phương và đa phương.
Với những nội hàm mới như vậy, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh tình hình mới, ban cán sự đảng Bộ Công Thương đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về kinh tế đối ngoại, bảo đảm phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế; đồng thời, khẩn trương xây dựng chiến lược mới về hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc tham gia có chọn lọc các Hiệp định Thương mại tự do, đặc biệt là các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới; đồng thời, tập trung triển khai có hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia, bảo đảm sự phát triển bền vững. Chú trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại theo chiều sâu, gắn chặt với lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời tích cực đẩy mạnh quan hệ kinh tế với các đối tác lớn và có tiềm năng nhằm tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế, thương mại trong nước.
Hai là, tập trung xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp có tính chất nền tảng (như công nghiệp hỗ trợ, vật liệu, hóa chất, chế tạo, chế biến, điện tử) và hình thành các doanh nghiệp công nghiệp mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu; đồng thời, chú trọng phát triển một số ngành mang tính đột phá, phù hợp với xu thế quốc tế như công nghệ xanh, các phương tiện giao thông sử dụng năng lượng mới, công nghiệp điện tử với hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp sinh hóa và dược phẩm v.v…
Ba là, đề cao vai trò của doanh nghiệp, xác định rõ doanh nghiệp là chủ thể, trung tâm trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp để duy trì và phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong mọi tình huống; tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và sản xuất, xuất, nhập khẩu hàng hóa; đặc biệt là định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để tiếp cận công nghệ tiên tiến, tiếp thu kinh nghiệm quản lý và đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhằm thay đổi tầm nhìn và kỹ năng lao động, từ đó giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Bốn là, tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Đồng thời, chú trọng giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích của các nước khác trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Bên cạnh việc đề cao lợi ích quốc gia-dân tộc của ta, cần nhận diện rõ những điểm chung giữa các quốc gia để chủ động thúc đẩy hợp tác, thúc đẩy định hình các quy tắc, luật lệ chung có lợi cho Việt Nam trong phân công lao động quốc tế, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, cung ứng khu vực và toàn cầu, nâng cao thực lực và vị thế của đất nước một cách bền vững nhất. “Chúng ta cần tăng cường bảo đảm an ninh kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong lựa chọn, thu hút đầu tư nước ngoài ở các ngành mang tính chiến lược, nền tảng và trong thực thi một số cam kết của các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Điểm thứ năm, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên là cần chú trọng nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác có liên quan đến kinh tế đối ngoại và cộng đồng doanh nghiệp về chiến lược kinh tế đối ngoại, xung đột thương mại giữa các nước lớn, chủ nghĩa bảo hộ thương mại và rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng… do đại dịch Covid-19 hoặc các tình huống bất khả kháng khác có thể xảy ra. Đồng thời, quan tâm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hoạt động kinh tế đối ngoại, bảo đảm ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên kể từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta tổ chức một Hội nghị chuyên sâu về công tác đối ngoại với quy mô toàn quốc. Với quy mô đó, Hội nghị sẽ đánh giá toàn diện kết quả công tác đối ngoại thời gian qua, đánh giá đúng tình hình khu vực và thế giới, giúp nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Từ đó, đề ra nội dung, nhiệm vụ, giải pháp công tác đối ngoại thời gian tới, trên cơ sở phát huy vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp chặt chẽ giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, các ngành, các cấp trong công tác đối ngoại.
Nhiệm vụ đặt ra là thực hiện đồng bộ, nâng cao chất lượng, hiệu quả cả ba trụ cột đối ngoại, đó là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước; tích cực góp phần tạo dựng và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định tranh thủ điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nâng cao vị thế Việt Nam.
Hội nghị có ý nghĩa rất quan trọng này là một trong số một loạt các hội nghị nhằm triển khai đường lối Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị sẽ tạo ra sự thống nhất trong nhận thức, quán triệt đường lối đối ngoại và thực hiện triển khai đồng bộ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; qua đó tạo sự đồng thuận trong xã hội, sự đồng lòng của người Việt Nam ở trong nước cũng như nước ngoài và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
An Châu
 

Nguồn:Cổng Thông tin điện tử Bộ Công Thương

Link gốc