Ấn Độ, nước nhập khẩu dầu thực vật lớn nhất thế giới, sẽ phải chi thêm hàng tỷ USD trong năm nay, để nhập khẩu dầu ăn ngày càng đắt đỏ từ thị trường quốc tế. Các quan chức ngành công nghiệp này cho biết, chính phủ đang có ý định giảm thuế nhập khẩu để giảm nhẹ tác động lên nền kinh tế, khi giá dầu ăn chạm mức cao kỷ lục trong tháng trước. Chính phủ của đất nước với dân số 1,3 tỷ người này đã tìm cách đẩy chi phí thực phẩm về mức hợp túi tiền với người dân và giữ áp lực giá trong tầm kiểm soát.
Các vấn đề trong sản xuất các loại hạt có dầu trên thế giới cùng với nhu cầu sử dụng dầu diesel sinh học đang tăng đã đẩy giá dầu thực vật tăng mạnh. Giá dầu đậu tương kỳ hạn tăng hơn 70% trong năm nay sau khi hạn hán đã thắt chặt nguồn cung tại Mỹ và Brazil. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo tồn kho đậu tương toàn cầu trong tháng 9/2021 sẽ giảm xuống ở 87,9 triệu tấn - mức thấp nhất trong 5 năm.
Sản lượng hạt hướng dương và hạt cải tại châu Âu và khu vực biển Đen đều sụt giảm, tiếp tục thắt chặt nguồn cung dầu ăn, đẩy giá thực phẩm toàn cầu lên mức cao nhất trong vòng 10 năm trong tháng 5/2021. Phản ánh giá trên thị trường quốc tế, giá dầu cọ và dầu đậu tương nội địa cũng tăng gấp đôi so với năm 2020.
Là nước nhập khẩu dầu ăn hàng đầu thế giới, Ấn Độ chi trung bình 8,5 – 10 tỷ USD hàng năm cho nhập khẩu dầu thực vật và diễn biến tăng giá gần đây sẽ chỉ làm tăng thêm giá trị nhập khẩu dầu ăn của nước này. Dầu thực vật là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ 3 của Ấn Độ chỉ sau dầu thô và vàng.
Theo ước tính của ngành, nhập khẩu dầu thực vật của Ấn Độ trong năm 2021 sẽ tăng lên mức 15 triệu tấn, từ mức 4 triệu tấn trong 2 thập kỷ trước. Các chuyên gia thương mại và công nghiệp dự báo, lượng nhập khẩu có thể chạm mốc 20 triệu tấn vào năm 2030, do dân số tăng, thu nhập tăng và sự ưa thích thực phẩm chiên rán.
Sản xuất hạt có dầu nội địa không theo kịp nhu cầu do nông dân chuyển sang trồng các loại ngũ cốc như lúa gạo và lúa mỳ - những loại được chính phủ đảm bảo giá sàn.
Trong giai đoạn 2019 – 20, Ấn Độ sản xuất khoảng 10,65 triệu tấn dầu ăn, chỉ đáp ứng chưa được một nửa mức tiêu thụ 24 triệu tấn của nước này, chính phủ và chuyên gia thương mại cho biết. Phần còn lại, Ấn Độ phải nhập khẩu, trong đó gồm khoảng 7,2 triệu tấn dầu cọ từ Indonesia và Malaysia, khoảng 3,4 triệu tấn dầu đậu tương từ Brazil và Arentina, và 2,5 triệu tấn dầu hạt hướng dương chủ yếu là từ Nga và Ukraine.
Giá dầu thực vật tăng mạnh đã đè nặng lên chi phí sinh hoạt của người dân Ấn Độ, trong bối cảnh giá nhiên liệu cao kỷ lục và thu nhập thấp hơn do sự tàn phá của làn sóng Covid-19 lần thứ hai. Chính phủ nước này đã lên tiếng hỗ trợ sản xuất hạt có dầu nội địa trong những năm gần đây và kỳ vọng tạo nhiều động lực cho nông dân sẵn sàng mở rộng sản xuất hạt có dầu trong kế hoạch ngân sách hàng năm mới nhất. Tuy nhiên, chính phủ vẫn chưa đề ra kế hoạch khả thi nào để tăng sản lượng hạt có dầu.
Ấn Độ sản xuất một số loại hạt có dầu (chủ yếu là lạc, đậu tương và hạt cải) nhưng lại không được chính phủ đảm bảo giá như các loại ngũ cốc khác. Do vậy, sản lượng gạo và lúa mỳ của Ấn Độ trung bình cao gấp gần 6 lần so với sản lượng hạt có dầu.
Ngành sản xuất dầu thực vật trong nước lập luận rằng chính phủ Ấn Độ thu về khoảng 350 tỷ rupee (tương đương 4,79 tỷ USD) từ thuế nhập khẩu dầu ăn, do đó nên dành ra một khoản để có các chính sách khuyến khích nông dân chuyển sang hạt có dầu. Tuy nhiên, chính phủ vẫn chưa có động thái gì từ đầu năm đến nay mà vẫn phụ thuộc vào việc điều chỉnh thuế nhập khẩu để kiểm soát lượng và giá.
Nguồn:VITIC/Reuters