Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần do USD mạnh lên, lo ngại về việc Anh rời khỏi EU (Brexit) cùng với nỗi lo nguồn cung dầu tiếp tục tăng trên toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2016 trên sàn New York giảm 39 cent, tương đương 0,8%, xuống 48,49 USD/thùng, thấp nhất kể từ 23/5.
Giá dầu Brent giao tháng 8/2016 trên sàn London giảm 52 cent, tương ứng 1%, xuống 49,83 USD/thùng, thấp nhất kể từ 3/6.
Khả năng Anh rời khỏi EU (Brexit) đã khiến thị trường toàn cầu tuần này biến động mạnh, gây áp lực lên tài sản rủi ro hơn như hàng hóa và đẩy tăng đầu tư vào tài sản trú ẩn an toàn như USD. Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, tăng 0,5%, khiến dầu thô, giao dịch bằng đồng bạc xanh, trở nên đắt đỏ hơn so với người mua sử dụng ngoại tệ.
Giới đầu tư cũng lo ngại tình trạng thừa cung toàn cầu chưa giảm nhiều như dự đoán bất chấp những gián đoạn nguồn cung bất ngờ tại một số khu vực.
Giá dầu đã tăng mạnh trong những tuần gần đây do thiên tai và bạo lực khiến nguồn cung tại một số khu vực bị gián đoạn và sản lượng dầu thô của Mỹ giảm.
Tại Mỹ đà tăng của giá dầu từ dưới 30 USD/thùng hồi tháng 2 lên trên 50 USD/thùng trong tuần trước có thể khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hoạt động khoan giếng dầu mới. Số giàn khoan của Mỹ đã tăng tuần thứ 2 liên tiếp, theo số liệu của Baker Hughes.
Giới đầu tư đang chờ số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) về lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần qua. Các nhà phân tích trong khảo sát Wall Street Journal dự đoán lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần qua giảm 2,1 triệu thùng, nguồn cung xăng giảm 200.000 thùng.
Viện Dầu mỏ Mỹ (API) ngày thứ Ba 14/6 cho biết, theo số liệu của Viện, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 10/3 tăng 1,2 triệu thùng, nguồn cung xăng tăng 2,3 triệu thùng và dự trữ sản phẩm chưng cất tăng 3,7 triệu thùng. Cùng ngày, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, cung-cầu dầu thô trên thị trường toàn cầu có thể cân bằng hơn trong nửa cuối năm nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng lên mức cao nhất 6 tuần do lo ngại khả năng Brexit và đồn đoán Fed sẽ không nâng lãi suất trong phiên họp tháng 6.
Giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.285 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8/2016 tăng 0,1% lên 1.288,1 USD/ounce, ghi nhận phiên tăng thứ 5 liên tiếp.
Nếu tính theo Bảng Anh, giá vàng đạt mức cao nhất 3 năm ở 913,09 bảng/ounce khi đồng nội tệ của Anh giảm xuống thấp nhất 8 tuần qua.
Giới phân tích cho rằng, giá vàng có thể sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn nữa nếu người dân Anh bỏ phiếu ủng hộ việc ra khỏi EU (Brexit), đẩy châu Âu rơi vào khủng hoảng.
Vàng, thường được coi là tài sản trú ẩn an toàn vào những thời điểm bất ổn kinh tế và tài chính, đang được các nhà đầu tư né tránh rủi ro ồ ạt mua vào trước phiên họp của các ngân hàng trung ương trong tuần này.
Fed được dự đoán sẽ tiếp tục giữ nguyên lãi suất trong ít nhất một tháng nữa trong phiên họp 2 ngày bắt đầu vào thứ Ba 14/6.
Ngân hàng trung ương Anh, Ngân hàng trung ương Thụy Sỹ và Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) cũng nhóm họp trong tuần này và đều được dự đoán sẽ giữ nguyên chính sách tiền tệ do lo ngại về viễn cảnh kinh tế toàn cầu.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 17,39 USD/ounce, giá bạch kim giảm 1,4% xuống 971,06 USD/ounce và giá palladium giảm 0,17% xuống 530,89 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm. Tại London, robusta các kỳ hạn đảo chiều giảm 28-31 USD/tấn. Tại New York, arabica các kỳ hạn giảm 1,85-2,25 cent/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,49
|
-0,39
|
-0,8%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
49,83
|
-0,52
|
-1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.760,00
|
-500,00
|
-1,60%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,60
|
0,00
|
-0,12%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
148,40
|
-3,73
|
-2,45%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
147,92
|
-2,28
|
-1,52%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
437,75
|
-5,75
|
-1,30%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
43.810,00
|
-460,00
|
-1,04%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.286,60
|
-1,50
|
-0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.359,00
|
+26,00
|
+0,60%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,37
|
-0,05
|
-0,31%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,10
|
+0,40
|
+0,68%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
974,90
|
-0,98
|
-0,10%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
537,15
|
+2,91
|
+0,54%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
204,50
|
+0,45
|
+0,22%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.510,50
|
-46,50
|
-1,02%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.610,00
|
+10,00
|
+0,63%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.019,00
|
-58,00
|
-2,79%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
16.975,00
|
-175,00
|
-1,02%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
436,00
|
-0,50
|
-0,11%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
486,50
|
+1,50
|
+0,31%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
206,50
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,30
|
-0,02
|
-0,18%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.150,50
|
+1,25
|
+0,11%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
404,90
|
+2,40
|
+0,60%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,49
|
-0,03
|
-0,09%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
531,00
|
+1,00
|
+0,19%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.104,00
|
-5,00
|
-0,16%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
137,05
|
-2,25
|
-1,62%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,42
|
-0,22
|
-1,12%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
163,75
|
-3,65
|
-2,18%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,02
|
+0,11
|
+0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
297,40
|
-4,70
|
-1,56%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
149,90
|
+0,50
|
+0,33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,72
|
-0,02
|
-0,92%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet