Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm phiên thứ 5 liên tiếp, thấp nhất 3 tuần, khi giới đầu tư lo ngại dấu hiệu cho thấy thừa cung giảm chỉ mang tính nhất thời.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2016 trên sàn New York giảm 48 cent, tương đương 1%, xuống 48,01 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 8/2016 trên sàn London giảm 86 cent, tương ứng 1,7%, xuống 48,97 USD/thùng.
Giá dầu đã giảm mạnh từ hôm thứ Sáu 10/6 khi hãng dịch vụ giếng dầu Baker Hughes cho biết, số giàn khoan dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 10/6 tăng tuần thứ 2 liên tiếp. Hôm thứ Hai và thứ Ba (13-14/6), số liệu của Genscape và Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cũng cho thấy lượng dầu lưu kho của Mỹ tiếp tục tăng.
Theo số liệu của chính phủ Mỹ công bố hôm thứ Tư 15/6, lượng dầu lưu kho của Mỹ tuần qua chỉ giảm 933.000 thùng, chưa bằng ½ dự đoán của các nhà phân tích.
Theo giới phân tích và các nhà đầu tư, đà giảm nguồn cung có thể là chưa đủ để kéo giảm tình trạng thừa cung - vốn gây áp lực lên giá dầu trong 2 năm qua. Lượng dầu lưu kho tại Cushing, Oklahoma cũng tăng 525.000 thùng. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy hoạt động sản xuất dầu thô của Canada đang hồi phục sau khi bị ảnh hưởng bởi nạn cháy rừng và dầu thô Canada sẽ lại tràn ngập thị trường Mỹ trong vài tuần tới.
Hôm thứ Tư 15/6, các nhà phân tích tại Goldman Sachs đã gọi đợt hồi phục gần đây của giá dầu là “mong manh”. Giá dầu đã tăng 95% trong 4 tháng tính đến tuần trước, chủ yếu do cháy rừng tại Canada và các đợt tấn công quân sự tại châu Phi gây gián đoạn nguồn cung. Tuy nhiên, việc này có thể là chưa đủ để kéo giảm lượng dầu lưu kho - vốn đã lên cao kỷ lục trong những năm gần đây.
Goldman Sachs cho biết, hoạt động sản xuất dầu của Canada đã tái khởi động và các nước xuất khẩu chủ chốt khác đang tăng sản lượng mạnh hơn dự đoán và đà tăng của giá dầu gần đây sẽ khiến sản lượng không giảm như mong đợi, nhất là tại Mỹ. Nguồn cung tại Nigeria và Venzuela vẫn tiếp tục gián đoạn, giúp giá dầu Mỹ ổn định ở mức 49 USD/thùng trong 3 tháng tới. Tuy nhiên, thị trường lại thừa cung vào đầu năm 2017.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng phiên thứ 6 liên tiếp, tiến sát mốc 1.300 USD/ounce sau khi Fed hạ dự báo tăng trưởng kinh tế, giảm tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ.
Giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.293,86 USD/ounce. Tong phiên có lúc giá tăng lên 1.296,7 USD/ounce, cao nhất kể từ 3/5. Giá vàng giao tháng 8/2016 tăng 20 cent lên 1.288,3 USD/ounce trước tuyên bố phiên họp Fed.
USD tiếp tục đà suy giảm so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ trong khi thị trường chứng khoán toàn cầu tăng nhẹ.
Sau phiên họp 2 ngày, Fed quyết định giữ nguyên lãi suất đúng như dự đoán nhưng phát tín hiệu vẫn dự định nâng lãi suất 2 lần trong năm nay và dự đoán thị trường việc làm của Mỹ sẽ cải thiện sau đợt suy giảm gần đây.
Giá vàng đã tăng liên tục 6 phiên với tư cách tài sản trú ẩn an toàn khi những tài sản rủi ro hơn như cổ phiếu giảm mạnh do lo ngại về khả năng Anh ra khỏi EU (Brexit). Lợi tức trái phiếu chính phủ Đức cũng xuống dưới 0 làn đầu tiên.
Giá vàng tính theo bảng Anh tiếp tục tăng sau tuyên bố phiên họp của Fed, tăng 0,4% lên sát đỉnh 3 năm.
Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thá lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Ba 14/6 lên cao nhất kể từ tháng 10/2013.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1% lên 17,54 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,1% lên 974,5 USD/ounce và giá palladium tăng 0,5% lên 535,5 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê biến động trái chiều. Tại London, robusta giảm 4-7 USD/tấn. Trong khi đó tại New York, arabica tăng 2,85-3,1 cent/lb.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 5/2016 đạt khoảng 2,83 triệu bao, tăng 12,9% so với tháng 4/2016, đưa xuất khẩu cà phê trong 8 tháng đầu niên vụ 2015-2016 (tháng 10 - tháng 9) lên 19,33 triệu bao, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,01
|
-0,48
|
-1%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
48,97
|
-0,86
|
-1,7%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.450,00
|
-450,00
|
-1,46%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,60
|
+0,00
|
+0,12%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
149,78
|
-0,36
|
-0,24%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
147,14
|
-0,64
|
-0,43%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
436,00
|
-5,00
|
-1,13%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
43.430,00
|
-470,00
|
-1,07%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.301,80
|
+13,50
|
+1,05%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.390,00
|
+19,00
|
+0,43%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
978,70
|
+2,71
|
+0,28%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
535,47
|
+1,87
|
+0,35%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
978,70
|
+2,71
|
+0,28%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
535,47
|
+1,87
|
+0,35%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
209,05
|
-0,05
|
-0,02%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.639,50
|
+129,00
|
+2,86%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.626,00
|
+16,00
|
+0,99%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.037,00
|
+18,00
|
+0,89%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
16.975,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
425,75
|
-3,25
|
-0,76%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
476,00
|
-1,50
|
-0,31%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
203,00
|
-1,50
|
-0,73%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,61
|
-0,01
|
-0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.130,25
|
-8,25
|
-0,72%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
399,60
|
-2,10
|
-0,52%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,86
|
-0,10
|
-0,31%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
523,70
|
-1,60
|
-0,30%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.116,00
|
+12,00
|
+0,39%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
140,10
|
+3,05
|
+2,23%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,85
|
+0,43
|
+2,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
162,40
|
-1,35
|
-0,82%
|
Bông
|
US cent/lb
|
63,41
|
-0,21
|
-0,33%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
297,90
|
+0,50
|
+0,17%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
150,30
|
+0,40
|
+0,27%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,69
|
-0,05
|
-2,77%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg