Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi số liệu lượng dầu lưu kho đưa ra những tín hiệu trái chiều về nguồn cung dầu thô trên thị trường.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York tăng 1,10 USD, tương ứng 2,69%, lên 41,93 USD/thùng. Giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,19 USD, tương đương 2,76%, lên 44,29 USD/thùng.
Số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) vừa công bố khiến giới đầu tư ngạc nhiên khi nguồn cung xăng bất ngờ giảm 3,3 triệu thùng - cao hơn nhiều so với dự đoán, phần nào giúp xoa dịu lo ngại của giới phân tích về tình trạng thừa cung và giúp giá dầu ngày 4/8 tăng phiên thứ 2 liên tiếp.
Tuy nhiên, lo ngại về tình trạng thừa cung tiếp tục gây áp lực lên thị trường. Số liệu của EIA cho thấy, lượng xăng lưu kho thương mại của Mỹ trong tuần kết thúc vào 29/7 tăng 2,1 triệu thùng lên 1,4 tỷ thùng, trong khi sản lượng dầu thô của Nga và Iraq cũng lập kỷ lục mới.
Thừa cung dầu thô đã chuyển thành dư cung sản phẩm lọc dầu sau khi các nhà máy lọc dầu tận dụng lợi thế giá dầu rẻ để chế biến thành xăng và các sản phẩm nhiên liệu khác.
Hơn nữa, quá trình tái cân bằng của thị trường dầu thô sẽ kéo dài hơn dự đoán do một loạt các yếu tố. Sản lượng dầu thô của OPEC, Nga và Brazil tăng tiếp tục duy trì tình trạng thừa cung trong khi viễn cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảm đạm có thể kéo giảm nhu cầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trở lại sau khi Ngân hàng trung ương Anh (BOE) hạ lãi suất lần đầu tiên kể từ 2009, nhưng đà tăng bị hạn chế do USD tăng.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.361,14 USD/ounce; giá vàng giao thang 12/2016 trên sàn Comex (New York) tăng 0,2% lên 1.367,4 USD/ounce.
Cùng với việc hạ lãi suất xuống mức thấp kỷ lục ở 0,25%, BOE cho biết sẽ mua 60 tỷ bảng Anh nợ chính phủ nhằm hạn chế tác động tiêu cực và hỗ trợ nền kinh tế sau khi người Anh bỏ phiếu ra khỏi EU hôm 23/6 vừa qua.
Các nhà phân tích tại Capital Economics cho biết, sự thay đổi về kỳ vọng chính sách tiền tệ tại Mỹ, Nhật Bản, eurozone và Anh đóng vai trò lớn trong đà tăng của giá vàng từ đầu năm đến nay và xu hướng này còn tiếp tục.
Việc Anh nới lỏng chính sách tiền tệ đã giúp chứng khoán châu Âu tăng 0,6% trong khi USD tăng 0,2% so với giỏ tiền tệ sau số liệu việc làm tích cực mà ADP công bố hôm thứ Tư 3/8.
Số liệu của ADP đã làm tăng đồn đoán báo cáo việc làm phi nông nghiệp của Mỹ, công bố vào thứ Sáu tuần này, sẽ đủ mạnh để “hồi phục” dự đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào cuối năm nay.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,1% lên 20,39 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,1% lên 1.160 USD/ounce trong khi giá palladium giảm 0,7% xuống 704,15 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê biến động trái chiều. Robusta trên sàn London các kỳ hạn đảo chiều giảm 5-10 USD/tấn, trong khi đó Arabica trên sàn New York tăng 1,7-1,85 cent/lb.
Theo số liệu của chính phủ, xuất khẩu cà phê của Indonesia trong tháng 5 đạt 21.000 tấn, thấp hơn so với 34.000 tấn mức bình quân 5 năm qua. Xuất khẩu cà phê Robusta từ đảo Sumatra, Indonesia trong tháng 7/2016 giảm 66% so với cùng kỳ năm ngoái chỉ đạt 12.350 tấn so với 36.644 tấn cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu của chính phủ Indonesia. Tuy nhiên so với tháng 6/2016, xuất khẩu cà phê tháng 7 vẫn tăng 3.100 tấn.
Trong khi đó, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 7/2016 tăng 17% so với cùng kỳ đạt 130.000 tấn, nhưng vẫn thấp hơn so với 145.000-160.000 tấn kỳ vọng của thị trường.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
41,93
|
+1,10
|
+2,69%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
44,29
|
+1,19
|
+276%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
26.850,00
|
+250,00
|
+0,94%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,82
|
-0,01
|
-0,42%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
136,29
|
-0,51
|
-0,37%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
131,89
|
-0,70
|
-0,53%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
382,25
|
+9,00
|
+2,41%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
39.000,00
|
+150,00
|
+0,39%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.366,50
|
+0,90
|
+0,07%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.410,00
|
+11,00
|
+0,25%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,37
|
-0,08
|
-0,38%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
66,10
|
+0,30
|
+0,46%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.158,50
|
-0,45
|
-0,04%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
702,84
|
-2,00
|
-0,28%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
217,25
|
-0,15
|
-0,07%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.831,00
|
-44,00
|
-0,90%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.622,50
|
-19,50
|
-1,19%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.255,00
|
-18,00
|
-0,79%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.995,00
|
+70,00
|
+0,39%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
332,75
|
+1,75
|
+0,53%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
406,50
|
+3,25
|
+0,81%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
184,50
|
-1,25
|
-0,67%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,33
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
971,00
|
+14,25
|
+1,49%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
329,00
|
+5,00
|
+1,54%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,07
|
+0,04
|
+0,13%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
449,50
|
+2,60
|
+0,58%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.991,00
|
-2,00
|
-0,07%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
142,10
|
+1,70
|
+1,21%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,70
|
+0,66
|
+3,47%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
175,15
|
+2,25
|
+1,30%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,08
|
+0,25
|
+0,33%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
317,10
|
+2,10
|
+0,67%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
153,20
|
+2,50
|
+1,66%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,40
|
+0,03
|
+2,11%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet