Chỉ số đồng USD so với sáu đồng tiền chủ chốt đã tăng 0,04% lên 89,59 trong phiên giao dịch này. Tuần trước, chỉ số đồng USD đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng ba năm.
Thị trường đã xuất hiện những đồn đoán về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ có 4 đợt tăng lãi suất trong năm nay. Tuy nhiên, một số chuyên gia nhận định nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể sẽ không tăng trưởng mạnh như dự báo, nên số lần tăng có thể sẽ thấp hơn con số 4.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm phiên thứ 3 liên tiếp do đồng USD mạnh lên sau đợt bán tháo chứng khoán khiến Phố Wall nói riêng và toàn cầu nói chung mất giá hôm đầu tuần.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 3/2018 trên sàn New York giảm 76 US cent xuống 63,39 USD/thùng. Trước đó giá dầu loại này có lúc xuống mức thấp nhất kể từ 2/1 là 66,53 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 4/2018 trên sàn London cũng giảm 76 US cent xuống 66,86 USD/thùng.
Đồng USD mạnh làm cho giá dầu trở nên kém hấp dẫn đối với những nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Bất chấp nỗ lực cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), nguồn cung trên thị trường dầu mỏ hiện vẫn khá dồi dào do sản lượng dầu đá phiến của Mỹ tăng gần 18% kể từ giữa năm 2016, lên 10 triệu thùng/ngày. Xu hướng gia tăng sản lượng của Mỹ vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Hiện Nga vẫn dẫn đầu về sản lượng dầu mỏ toàn cầu với mức trung bình 10,98 triệu thùng/ngày trong năm 2017.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự báo sản lượng dầu của Mỹ sẽ vượt 11 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2018, sớm hơn một năm so với dự báo trong tháng trước.
Sản lượng của Mỹ tăng ổn định trong những tháng gần đây và được dự kiến đạt trung bình 10,24 triệu thùng trong quý 1 năm nay, sẽ tăng dần lên 10,04 triệu thùng/ngày trong quý 4 năm nay.
Trong tháng 11, sản lượng dầu mỏ Mỹ đã vượt 10 triệu thùng/ngày, lần đầu tiên vượt ngưỡng này kể từ năm 1970 và gần mức cao kỷ lục.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm mức thấp nhất trong hai tuần rưỡi trong bối cảnh giới đầu tư đang thận trọng trước đồn đoán lãi suất tại Mỹ sẽ còn được nâng lên cao hơn.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 1% xuống 1.326,51 USD/ounce sau khi đã có lúc rơi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 18/1 là 1.325,61 USD/ounce (lúc đầu phiên), vàng giao tháng 4/2018 cũng giảm 0,5% (7 USD) xuống 1.329,5 USD/ounce.
Với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống 16,59 USD/ounce. Giá bạch kim cũng để mất 0,5% xuống 984,5 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất trong ba tuần là 979,74 USD/ounce hồi đầu phiên.
Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, do một khi đồng bạc xanh mạnh lên sẽ khiến sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng giảm đáng kể.
Giới đầu tư nhận định giá vàng sẽ khó được hưởng lợi từ sự biến động của thị trường chứng khoán trong tuần này bởi nền kinh tế Mỹ vẫn khá ốn định và thị trường chứng khoán dự kiến sẽ phục hồi.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 3 giảm 0,06 US cent tương đương 0,4% xuống 13,84 US cent/lb, sau khi có lúc tăng lên 14,04 US cent, mức cao nhất kể từ 16/1.
Đường trắng giao tháng 5 giá giảm 2,4 USD tương đương 0,7% xuống 361,90 USD/tấn.
Hiệp hội các nhà máy đường Ấn Độ dự báo nước này sẽ tiếp tục xuất khẩu đường trong năm 2018-2019.
Cà phê hồi phục trở lại sau phiên giảm trước đó. Arabica giao tháng 3 giá tăng 3,05 US cent tương đương 2,6% lên 1,2285 USD/lb, mức tăng mạnh nhất kể từ ngày 2/1, trong khi đó robusta giao cùng kỳ hạn tăng 24 USD tương đương 1,4% lên 1.804 USD/tấn.
Theo số liệu của Liên đoàn cà phê châu Âu, tồn trữ cà phê tại các cảng châu Âu trong tháng 12 đã giảm 5,3%.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
63,39
|
-76
|
-1,09%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
66,86
|
-76
|
-1,12%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
42.800,00
|
+400,00
|
+0,94%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,76
|
0,00
|
-0,04%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
182,00
|
+1,48
|
+0,82%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
199,16
|
+0,65
|
+0,33%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
596,25
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
58.350,00
|
+490,00
|
+0,85%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.330,10
|
-0,60
|
-0,05%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.664,00
|
-27,00
|
-0,58%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,65
|
+0,07
|
+0,42%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,80
|
-0,20
|
-0,34%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
992,52
|
+1,75
|
+0,18%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.012,82
|
-0,69
|
-0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
321,40
|
+2,50
|
+0,78%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
7.076,00
|
-93,00
|
-1,30%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.170,00
|
-41,00
|
-1,85%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.457,00
|
-91,00
|
-2,56%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.725,00
|
-195,00
|
-0,89%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
364,25
|
+0,75
|
+0,21%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
448,75
|
+2,50
|
+0,56%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
271,00
|
+2,75
|
+1,03%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,55
|
0,00
|
-0,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
991,50
|
+5,25
|
+0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
335,30
|
+3,60
|
+1,09%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,21
|
+0,05
|
+0,15%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
499,50
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.065,00
|
-9,00
|
-0,43%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
122,85
|
+3,05
|
+2,55%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,84
|
-0,06
|
-0,43%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
146,30
|
+2,55
|
+1,77%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,19
|
-0,38
|
-0,50%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
484,00
|
+6,10
|
+1,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
195,50
|
+1,80
|
+0,93%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,42
|
-0,01
|
-0,56%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet