Nhiều nhà quan sát nhận định, chứng khoán Mỹ đi xuống sẽ khiến giới đầu tư tìm kiếm các lựa chọn thay thế. Nhân tố này không thể bị bỏ qua vì cũng sẽ ảnh hưởng tới các hợp đồng hàng hóa kỳ hạn. Bất chấp đà tăng của phiên cuối tuần, thị trường chứng khoán Mỹ vẫn chứng kiến một tuần tồi tệ, do hoạt động bán tháo của giới giao dịch trong những phiên trước đó. Người phát ngôn của Nhà Trắng Raj Shah trong một phát biểu mới đây đã lên tiếng bày tỏ lo ngại về sự lao dốc của thị trường chứng khoán, nhưng vẫn nhấn mạnh rằng số liệu việc làm và lợi nhuận doanh nghiệp cao là những dấu hiệu cho thấy các nền tảng dài hạn của nền kinh tế mạnh.
Năng lượng: Giá dầu thô giảm mạnh
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu giảm phiên thứ 6 liên tiếp, với dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm 1,95 USD (3,2%) xuống 59,20 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 22/12/2017. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 12/2017 dầu WTI xuống dưới ngưỡng 60 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu Brent giảm 2,02 USD (3,1%) xuống 62,79 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 13/12/2017.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm gần 9%, còn giá dầu thô ngọt nhẹ New York (WTI) giảm 10%. Đây là mức giảm hàng tuần sâu nhất kể từ tháng 1/2016 của hai loại dầu này.
Đồng USD mạnh lên và chứng khoán thế giới giảm giá đã tác động tới thị trường hàng hóa. Bên cạnh đó, thống kê cho thấy sản lượng dầu của Mỹ đã lần đầu tiên kể từ năm 1970 vượt mức 10 triệu thùng/ngày trong tháng 11/2017.
Bất chấp nỗ lực cắt giảm sản lượng của các nước trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), nguồn cung của thị trường dầu mỏ hiện vẫn khá dồi dào.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, dự trữ dầu của nước này tăng 1,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 2/2 lên 420,3 triệu thùng. Hiện Nga vẫn dẫn đầu về sản lượng dầu mỏ toàn cầu với mức trung bình 10,98 triệu thùng/ngày trong năm 2017, song EIA ngày 6/2 công bố báo cáo cho hay sản lượng dầu của Mỹ dự kiến sẽ vượt ngưỡng 11 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2018, sớm hơn một năm so với dự đoán đưa ra hồi tháng trước.
Thống kê về sản lượng dầu tại Mỹ kết hợp với những thông tin mới về sự gia tăng khối lượng vận chuyển dầu của đường ống North Sea Forties càng đào sâu mối lo ngại về tình trạng nguồn cung dồi dào và gây sức ép đối với thị trường dầu mỏ. Các nhà đầu tư đang thực sự quan ngại rằng sự gia tăng hoạt động sản xuất dầu thô tại Mỹ sẽ lấn át nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.
Giá cả 2 loại dầu đã giảm hơn 11% kể từ mức đỉnh cao hồi cuối tháng 1/2018. Jim Ritterbusch, Chủ tịch Ritterbusch & Associates, cho rằng có nhiều yếu tố khiến thị trường dầu mỏ lao dốc. Hoạt động bán tháo chứng khoán đã thúc đẩy đồng USD tăng giá và gây sức ép đối với các mặt hàng định giá bằng đồng tiền này như dầu mỏ.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng tiếp tục gairm do xu hướng tăng giá của đồng bạc xanh và mối lo về tiến trình nâng lãi suất tại Mỹ.
Đóng cửa phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.314 USD/ounce, chỉ nhích nhẹ so với mức thấp nhất 5 tuần là 1.306,81 USD của phiên trước đó, tính chung cả tuần giá giảm 1,3%, ghi nhận tuần giảm thứ hai liên tiếp; trong khi đó hợp đồng vàng giao sau giảm 0,3 USD xuống 1.315,7 USD/ounce.
Đồng USD hướng đến tuần tăng mạnh nhất trong gần 15 tuần trong bối cảnh thị trường chứng khoán Mỹ mất điểm.
Thị trường vàng thế giới vừa trải một tuần ảm đạm, do sự tăng giá của đồng USD và mối lo ngại của nhà đầu tư về tiến trình nâng lãi suất tại Mỹ. Các thị trường dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất bốn lần trong năm 2018. Lãi suất tăng sẽ khiến vàng kém hấp dẫn hơn đối với giới đầu tư.
Giá vàng luôn nhạy cảm với những biến động của đồng USD, bởi một khi đồng bạc xanh mạnh lên sẽ khiến sức hấp dẫn của các tài sản như vàng giảm đáng kể.
Tuy nhiên, chuyên gia Ole Hansen, thuộc Saxo Bank, cho rằng các nhà đầu tư đang chờ đợi tác động của chương trình cải cách thuế đối với nền kinh tế Mỹ. Nếu việc cải cách này có tác động tiêu cực, đồng USD sẽ không tiếp tục được hưởng lợi.
Trong một thông tin liên quan, Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho biết nhu cầu tiêu thụ vàng trên toàn cầu trong năm 2017 đã giảm 7% xuống 4.471,7 tấn, mức thấp nhất trong tám năm, giữa bối cảnh hoạt động đầu tư sụt giảm của các quỹ đã “lấn át” việc tiêu thụ vàng trang sức gia tăng.
Nông sản: Giá đường giảm, cà phê vững
Phiên cuối tuần, giá đường thô giao tháng 3 tăng 0,09 US cent tương đương 0,7% lên 13,67 US cent/lb, trong khi đường trắng giao tháng 5 tăng 1,4 USD tương đương 358,50 USD/tấn.
Tính chung cả tuần, giá đường giảm nhẹ.
Cà phê giảm giá, với arabica giao tháng 5 giảm 1,1 US cent tương đương 0,9% xuống 1,238 USD/lb, robusta giao cùng kỳ hạn tăng 1 USD tương đương 0,6% lên 1.769 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá cà phê tương đối ổn định.
Hoạt động bán ra ở Brazil đã gây áp lực giảm giá arabica. Tuy nhiên, xuất khẩu từ nước sản xuất số 1 thế giới trong tháng 1 sụt giảm.
Sản lượng cà phê Brazil năm 2017/18 dự kiến sẽ cao kỷ lục theo chu kỳ hai năm một lần.
Capital Economics dự báo giá cà phê arabica sẽ đạt 1,40 USD còn robusta sẽ đạt 1.900 USD/tấn vào cuối năm 2018.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
2/2
|
10/2
|
10/2 so với 9/2
|
10/2 so với 9/2 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
65,45
|
59,83
|
+0,63
|
+1,06%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
68,58
|
63,35
|
+0,56
|
+0,89%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
44.010,00
|
39.590,00
|
-1.230,00
|
-3,01%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,85
|
2,60
|
+0,01
|
+0,46%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
187,20
|
171,50
|
+1,48
|
+0,87%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
205,35
|
186,68
|
+1,17
|
+0,63%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
610,50
|
557,00
|
+1,25
|
+0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
59.680,00
|
54.720,00
|
-1.130,00
|
-2,02%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.337,30
|
1.325,80
|
+10,10
|
+0,77%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.702,00
|
4.583,00
|
-25,00
|
-0,54%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,71
|
16,43
|
+0,29
|
+1,77%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,70
|
57,30
|
-0,50
|
-0,87%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
991,22
|
971,30
|
+5,88
|
+0,61%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.049,39
|
986,23
|
+8,57
|
+0,88%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
318,75
|
308,80
|
+5,45
|
+1,80%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
7.045,00
|
6.755,00
|
-90,00
|
-1,31%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.210,00
|
2.123,00
|
-47,00
|
-2,17%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.502,00
|
3.385,00
|
-36,50
|
-1,07%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
21.530,00
|
21.025,00
|
-300,00
|
-1,41%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
361,50
|
366,25
|
+4,25
|
+1,17%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
446,75
|
456,75
|
+7,75
|
+1,73%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
267,25
|
270,75
|
+3,00
|
+1,12%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,46
|
12,39
|
+0,07
|
+0,53%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
978,75
|
999,00
|
+16,00
|
+1,63%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
331,40
|
357,10
|
+10,50
|
+3,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,51
|
32,36
|
+0,21
|
+0,65%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
493,40
|
506,90
|
+3,40
|
+0,68%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.059,00
|
2.060,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
120,40
|
123,80
|
-1,10
|
-0,88%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,63
|
13,55
|
-0,04
|
-0,29%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
147,00
|
147,60
|
+0,10
|
+0,07%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,30
|
77,86
|
+0,23
|
+0,30%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
483,70
|
483,00
|
-8,90
|
-1,81%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
196,20
|
190,10
|
+0,90
|
+0,48%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
1,40
|
-0,01
|
-0,85%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Nguồn:Vinanet