Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ sau khi tăng mạnh trong tuần trước, giữa bối cảnh nhiều quốc gia trên khắp thế giới do dịch COVID-19 thực hiện phong tỏa làm gia tăng mối quan ngại về nhu cầu nhiên liệu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent giảm 33 US cent xuống 55,66 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1 US cent lên 52,25 USD/thùng.
Đồng USD tăng giá cũng góp phần gây sức ép đối với giá mặt hàng này. USD tăng lên mức cao nhất gần 3 tuần, được thúc đẩy bởi lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng, khiến giá dầu thô trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác. Phiên này, đồng USD mạnh lên nhờ những hy vọng gói kích thích sẽ được mở rộng hơn để hỗ trợ nền kinh tế lớn nhất thế giới. Dầu thường được định giá bằng USD, do đó, sự mạnh lên của đồng tiền này khiến dầu đắt hơn đối với người mua bằng các loại tiền tệ khác.
Theo trang worldometers.info, tính đến 7h30 sáng 12/1 (giờ Việt Nam), thế giới ghi nhận tổng cộng 91.277.721 ca mắc COVID-19. Bất chấp chính sách đóng cửa nghiêm ngặt, Anh vẫn đang đối mặt với những tuần tồi tệ nhất trong đại dịch COVID-19. Trong khi đó, ngày 10/1, Trung Quốc thông báo thêm 69 ca mắc COVID-19 mới, cao hơn gấp đôi con số 33 ca ghi nhận một ngày trước đó.
Nhà phân tích Eugen Weinberg của Commerzbank nhận định những lo ngại mới về nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu, trước sự gia tăng các ca mắc COVID-19 mới và chính sách hạn chế đi lại tại nhiều nước cùng với sự mạnh lên của đồng bạc xanh đang gây áp lực lên thị trường dầu mỏ.
Dù vậy, Goldman Sachs dự báo giá dầu Brent có thể tăng lên 65 USD/thùng vào mùa Hè năm 2021, nhờ chính sách cắt giảm sản lượng dầu của Saudi Arabia và diễn biến chính trị tại Mỹ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do chứng khoán giảm. Theo đó, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.846,61 USD/ounce, trong phiên có lúc chạm 1.816,53 USD/ounce – thấp nhất kể từ ngày 2/12/2020; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,8% lên 1.850,8 USD/ounce.
Tuy nhiên, sự gia tăng số ca mắc COVID-19 tại Mỹ và trên thế giới đã hạn chế đà tăng của giá vàng, khi các nhà đầu tư lo ngại hơn về diễn biến của dịch.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 3/2020 tăng 64,7 US cent, tương đương 2,63%, lên 25,284 USD/ounce; bạch kim giao tháng Tư giảm 26,7 USD, tương đương 2,49%, xuống 1.044,6 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các trường hợp nhiễm virus corona tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng, dấy lên mối lo ngại về nhu cầu, đồng thời đồng USD tăng mạnh và căng thẳng Mỹ - Trung gia tăng cũng gây áp lực giá.
Giá đồng trên sàn London giảm 3,4% xuống 7.852 USD/tấn, trong phiên trước đó giá đồng đạt 8.238 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 2/2013. Hồi tháng 3, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 4 năm (4.371 USD/tấn) do những chính sách phong tỏa ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất.
Đồng USD tăng mạnh khiến kim loại - mua bằng đồng USD - trở nên đắt hơn khi mua bằng các tiền tệ khác. Điều này có thể khiến nhu cầu giảm.
Giá các sản phẩm thép tại Trung Quốc giảm, theo đó thép không gỉ giảm do tồn trữ tăng tuần thứ 2 liên tiếp bởi nhu cầu mùa vụ giảm, trong khi các trường hợp nhiễm Covid-19 tại nước này tăng cũng gây áp lực thị trường.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 5/2021 giảm 2,8% xuống 4.348 CNY (671,56 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 4,2% xuống 4.458 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 5% xuống 13.930 CNY/tấn. Trên sàn Đại Liên giá quặng sắt giảm 1,7% xuống 1.046 CNY/tấn và giá than cốc giảm 3,8% xuống 2.844 CNY/tấn.
Tính đến ngày 7/1/2021, tồn trữ kim loại công nghiệp tăng tuần thứ 2 liên tiếp, tăng 5% so với tuần trước đó, tồn trữ thép cây tăng 5%, công ty tư vấn Mysteel cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ giảm từ mức cao nhất 6,5 năm, do mưa hỗ trợ cây trồng tại Nam Mỹ và các nhà đầu tư chờ đợi số liệu dự báo sản lượng cây trồng của chính phủ Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 2-1/4 US cent xuống 13,72-1/2 USD/bushel, trong đầu phiên giao dịch đạt 13,88-3/4 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 6/2014; ngô kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 4 US cent xuống 4,92-1/4 USD/bushel; trong khi lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 4 US cent xuống 6,34-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn ICE tăng 0,07 US cent lên 15,67 US cent/lb. Tuần trước, giá đường thô có thời điểm đạt 16,33 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 5/2017. Cũng trong phiên vừa qua, giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 3,2 USD lên 437,9 USD/tấn.
Nguồn cung đường trong ngắn hạn ước tính thắt chặt bởi sản lượng đường tại Thái Lan giảm, cũng hỗ trợ giá đặc biệt là đường trắng.
Giá cà phê Arabica giảm do các hạn chế virus corona, làm gia tăng mối lo ngại về triển vọng nhu cầu, đồng thời đồng real Brazil suy yếu cũng gây áp lực giá. Theo đó, Arabica kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 2,25 US cent tương đương 1,8% xuống 1,2145 USD/lb, trong đầu phiên chạm 1,191 USD/lb – thấp nhất kể từ giữa tháng 12/2020. Giá Robusta giao cùng kỳ hạn cũng giảm 3 USD tương đương 0,2% xuống 1.315 USD/tấn. Đồng real Brazil chạm mức thấp nhất kể từ giữa tháng 11/2020 gây áp lực giá giảm.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm, do nhập khẩu của nước sản xuất dầu cọ lớn thứ 2 thế giới trong tháng 12/2020 đạt mức cao kỷ lục. Trên sàn Bursa (Malaysia), dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 55 ringgit, tương đương 1,4%, xuống 3.775 ringgit (933,94 USD)/tấn.
Ủy ban dầu cọ Malaysia (MPOB) cho biết, nhập khẩu dầu cọ vào nước này trong tháng 12/2020 tăng 150% so với tháng trước đó lên 282.058 tấn; nhập khẩu dầu cọ thô cũng tăng 176% so với tháng trước đó lên 120.337 tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/1
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
52,14
|
-0.11
|
-0.21%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,66
|
-0.33
|
-0.59%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
35.020,00
|
+520.00
|
+1.51%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,80
|
+0.06
|
+2.04%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
152,18
|
+0.10
|
+0.07%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
157,23
|
-0.12
|
-0.08%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
445,75
|
+2.00
|
+0.45%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.660,00
|
+430.00
|
+0.87%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.847,20
|
-3.60
|
-0.19%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.195,00
|
-184.00
|
-2.88%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,16
|
-0.12
|
-0.49%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
85,50
|
-5.50
|
-6.04%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.050,14
|
+14.58
|
+1.41%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.381,46
|
+12.28
|
+0.52%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
356,20
|
-0.25
|
-0.07%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.131,00
|
-48.00
|
-0.59%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.021,50
|
-15.00
|
-0.74%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.813,50
|
-74.50
|
-2.58%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.000,00
|
-110.00
|
-0.52%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
492,25
|
-4.00
|
-0.81%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
634,75
|
-4.00
|
-0.63%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
354,75
|
-3.00
|
-0.84%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,58
|
-0.08
|
-0.63%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.372,50
|
-2.25
|
-0.16%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
446,80
|
+7.20
|
+1.64%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
42,63
|
-0.96
|
-2.20%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
672,80
|
+7.60
|
+1.14%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.480,00
|
-36.00
|
-1.43%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
121,45
|
-2.25
|
-1.82%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,67
|
+0.07
|
+0.45%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
122,25
|
-2.55
|
-2.04%
|
Bông
|
US cent/lb
|
80,43
|
+0.66
|
+0.83%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
666,70
|
-23.30
|
-3.38%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
156,90
|
-5.40
|
-3.33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,59
|
0.00
|
0.00%
|
Nguồn:VITIC/Reuters, Bloomberg