Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do kỳ vọng gói kích thích kinh tế mới của Mỹ sẽ được thông qua.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 73 US cent lên 42,46 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 61 US cent lên 40,64 USD/thùng.
Bob Yawger, Giám đốc trung tâm Energy Futures tại Mizuho ở New York cho biết, giá dầu của các hợp đồng kỳ hạn đã có đà tăng vào đầu phiên giao dịch 22/10 khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi cho biết các bên đàm phán đang tiến gần đến việc có thể đạt được thỏa thuận về gói kích thích kinh tế mới của Mỹ, thúc đẩy kỳ vọng nhu cầu dầu mỏ có thể được cải thiện.
Ngân hàng Goldman Sachs dự kiến giá dầu Brent trung bình sẽ tăng lên 59,40 USD/thùng trong năm 2021, so với mức 43,90 USD/thùng trong năm 2020. Trong khi đó, giá dầu WTI sẽ tăng lên 55,90 USD/thùng trong năm 2021 so với mức 40,10 USD/thùng trong năm 2020.
Tuy nhiên, số ca nhiễm Covid-19 đạt kỷ lục mới một ngày tại một số bang của Mỹ và ở Châu Âu, cùng với việc tiếp tục phong tỏa và cấm các hoạt động du lịch nước ngoài của Trung Quốc, tất cả đều báo hiệu nhu cầu nhiên liệu yếu kém.
Mặt khác, xuất khẩu dầu của Libya nhanh chóng tăng tốc trong tháng 10 do việc khởi động lại sau khi lực lượng miền đông nới lỏng phong tỏa. Sản lượng của Libya đã phục hồi lên khoảng 500.000 thùng/ngày và chính quyền tại Tripoli dự kiến sản lượng gấp đôi vào cuối năm nay.
Goldman Sachs dự kiến giá dầu Brent trung bình tăng lên 59,4 USD/thùng vào năm tới từ 43,9 USD/thùng trong năm nay, dầu WTI tăng lên 55,9 USD/thùng từ 40,1 USD/thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên. Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.903,16 USD/ounce; vàng kỳ hạn giảm 1,3% xuống 1.904,60 USD/ounce.
Đồng USD đã tăng trở lại sau 7 tuần ở mức thấp, khiến vàng đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Từ đầu năm 2020 đến nay, giá vàng đã tăng 26%, nhờ những chương trình kích thích kinh tế chưa từng có của các chính phủ và ngân hàng trung ương trên toàn thế giới nhằm hỗ trợ các nền kinh tế hồi phục. Robin Bhar, một nhà phân tích độc lập, nhận định giá vàng có khả năng đi ngang cho đến khi có kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ.
Ngân hàng Goldman Sachs gần đây dự báo giá vàng sẽ tăng lên mức 2.300 USD/ounce trong khoảng thời gian 12 tháng, khi chính sách tài khóa và tiền tệ ở các nước phát triển tiếp tục đẩy lãi suất xuống thấp và thúc đẩy nhu cầu phòng ngừa lạm phát.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,7% xuống 24,65 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,3% xuống 883,96 USD/ounce trong khi giá palađi giảm 0,8% xuống 2.385,52 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm từ mức 7.000 USD đạt được trong phiên trước do các nhà đầu từ đợi xem liệu Trung Quốc có dự trữ kim loại hay không và kế hoạch kích thích kinh tế của Mỹ lại bị trì hoãn một lần nữa. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa giảm 1% xuống 6.924 USD/tấn, giá đã phục hồi khoảng 50% kể từ mức thấp hồi cuối tháng 3.
Một số nhà phân tích và đầu tư đang tin tưởng vào nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, Trung Quốc thông báo kế hoạch mua đồng và các kim loại khác để đảm bảo nguồn cung trong tương lai.
Tâm lý suy giảm trên các thị trường tài chính do Tổng thống Mỹ Donald Trump cáo buộc Đảng Dân chủ không sẵn sàng thỏa hiệp về dự luật kích thích kinh tế.
Giá quặng sắt và thép thanh của Trung Quốc tiếp tục tăng phiên thứ hai liên tiếp, trong khi thép cuộn cán nóng tăng phiên thứ 4 liên tiếp bởi nhu cầu mạnh đối với các kim loại công nghiệp.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,4% lên 794 CNY (119,14 USD)/tấn. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc tăng 0,5 USD lên 120,5 USD/tấn trong ngày 21/10.
Thép thanh dùng trong xây dựng trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,3% lên 3.642 CNY/tấn và thép cuộn cán nóng tăng 1,1% lên 3.810 CNY/tấn; thép không gỉ giao tháng 12 tại Thượng Hải giảm 0,6% xuống 14.515 CNY/tấn.
Tồn kho sản phẩm thép hàng tuần tính tới 22/10 của các nhà máy và thương nhân Trung Quốc giảm 4,4% so với tuần trước xuống 20,3 triệu tấn.
Liên minh Châu Âu đã bắt đầu cuộc điều tra chống bán phá giá đối với các trụ thép sử dụng trong turbin gió nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa tăng 0,28 US cent hay 1,9% lên 14,78 US cent/lb sau khi chạm mức cao nhất 8 tháng là 14,94 US cent/lb trong phiên này; đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 5,7 USD hay 1,4% lên 399,00 USD/tấn.
Giá tăng ngày hôm nay là do tin trợ cấp của Ấn Độ. Các nguồn tin cho biết trợ cấp xuất khẩu đường của Ấn Độ chưa được đưa ra trước khi cuộc bầu cử cấp băng hoàn tất vào tháng tới.
Các đại lý cho biết thị trường đã củng cố trong ngày 20 và 21/10 sau khi tăng mạnh gần đây, với việc lên mức đỉnh gần đây trong phiên này làm dấy lên nhu cầu mua mới của quỹ.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 lúc đóng cửa tăng 2,55 US cent hay 2,4% lên 1,067 USD/lb, tăng lần đầu tiên trong 7 phiên qua. Trong phiên giá đã xuống mức thấp nhất 3 tháng là 1,032 USD.
Mưa gần đây đã cải thiện triển vọng vụ tới tại Brazil. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1 đóng cửa tăng 28 USD hay 2,2% lên 1.307 USD/tấn.
Giá cao su Nhật Bản đạt cao nhất hơn 3 năm do niềm tin vào sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc và lo ngại về nguồn cung đã thúc đẩy giá tại Thượng Hải trong cuối phiên giao dịch.
Hợp đồng cao su giao tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 2,4 JPY hay 1,1% lên 219,8 JPY (2,1 USD)/kg. Trong phiên này giá đã đạt 219,9 JPY, mức cao nhất kể từ ngày 19/9/2017.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 50 CNY lên 14.860 CNY (2.227 USD)/tấn và tăng phiên thứ 10 liên tiếp, chuỗi tăng dài nhất kể từ tháng 8/2013.
Lạc quan về nhu cầu phục hồi ổn định tại Trung Quốc đã hỗ trợ tâm lý, trong khi thị trường ít phản ứng với tin tức Thái Lan dỡ bỏ lệnh cấm biểu tình.
Giá hàng hóa sáng 23/10
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
40,62
|
-0,02
|
-0,05%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
42,46
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
28.050,00
|
+520,00
|
+1,89%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,97
|
-0,04
|
-1,20%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
115,84
|
+0,03
|
+0,03%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
115,65
|
-0,42
|
-0,36%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
333,50
|
-2,75
|
-0,82%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
43.090,00
|
+510,00
|
+1,20%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.904,50
|
-0,10
|
-0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.418,00
|
-35,00
|
-0,54%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,68
|
-0,03
|
-0,12%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
82,80
|
-0,60
|
-0,72%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
883,63
|
-2,37
|
-0,27%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.384,30
|
-2,00
|
-0,08%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
314,85
|
-0,50
|
-0,16%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.922,50
|
-69,00
|
-0,99%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.846,50
|
+3,00
|
+0,16%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.578,50
|
+10,00
|
+0,39%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
18.685,00
|
-60,00
|
-0,32%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
416,75
|
+0,50
|
+0,12%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
623,75
|
+1,00
|
+0,16%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
303,00
|
-0,50
|
-0,16%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,45
|
-0,01
|
-0,12%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.070,75
|
-1,50
|
-0,14%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
383,40
|
+1,00
|
+0,26%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,79
|
+0,10
|
+0,30%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
546,00
|
-0,90
|
-0,16%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.471,00
|
+45,00
|
+1,85%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
106,70
|
+2,55
|
+2,45%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,78
|
+0,28
|
+1,93%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
109,85
|
+0,40
|
+0,37%
|
Bông
|
US cent/lb
|
71,71
|
-0,23
|
-0,32%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
531,40
|
+9,40
|
+1,80%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
163,00
|
+0,70
|
+0,43%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,52
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:VITIC/Reuters, Bloomberg