Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 1% sau khi lượng dự trữ các sản phẩm chưng cất giảm mạnh và các công ty lọc dầu tăng cường hoạt động lên mức cao nhất trong hơn một năm qua.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 85 US cent, hay 1,3%, lên 67,27 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 92 US cent, hay 1,5%, lên 63,86 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của nước này đã tăng 90.000 thùng trong tuần trước, ít hơn nhiều so với dự đoán tăng 659.000 thùng của giới phân tích.
Trong khi đó, lượng dự trữ các sản phẩm dầu chưng cất giảm 3,3 triệu thùng, và các nhà máy lọc dầu đã tăng cường hoạt động lên 85,4% năng lực sản xuất, mức cao nhất kể từ tháng 3/2020.
Trong một báo cáo mới đây, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2021 sẽ tăng 6 triệu thùng/ngày, sau khi giảm đến 9,5 triệu thùng/ngày trong năm ngoái do dịch COVID-19.
Ngân hàng Goldman Sachs dự đoán nhu cầu dầu sẽ ghi nhận mức tăng mạnh nhất trong lịch sử, 5,2 triệu thùng/ngày, trong sáu tháng tới, khi tiến trình tiêm vaccine ngừa COVID-19 ở châu Âu được đẩy nhanh và nhu cầu đi lại gia tăng. Ngân hàng này dự đoán các lệnh giới hạn hoạt động đi lại quốc tế được nới lỏng vào tháng Năm tới sẽ khiến nhu cầu nhiên liệu cho máy bay tăng 1,5 triệu thùng/ngày.
Trong khi đó, tại Ấn Độ, nước tiêu thụ dầu đứng thứ ba thế giới, số ca tử vong do dịch COVID-19 đã vượt ngưỡng 200.000 ca và trong một tuần qua, mỗi ngày nước này có thêm hơn 300.000 ca nhiễm mới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng giữa bối cảnh đồng USD và lợi suất trái phiếu giảm, sau khi Fed giữ nguyên lãi suất và tái khẳng định chính sách để hỗ trợ đà phục hồi kinh tế.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.780,56 USD/ounce, sau khi có thời điểm giảm xuống 1.762 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 16/4; vàng giao sau giảm 0,3% xuống 1.773,9 USD/ounce.
Sau cuộc họp chính sách kéo dài 2 ngày, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khẳng định sẽ duy trì chính sách tiền tệ ổn định với lãi suất gần bằng 0% và mua trái phiếu số lượng lớn nhằm tiếp tục hỗ trợ tiến trình phục hồi nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19.
Tai Wong, người phụ trách mảng giao dịch kim loại tại BMO, nhận định giá vàng phục hồi sau khi rơi xuống mức thấp, giữa bối cảnh Chủ tịch Fed Jerome Powell nhấn mạnh cơ quan này sẽ không thu hẹp chính sách nới lỏng tiền tệ. Theo chuyên gia này, Fed có thể hỗ trợ giá vàng tăng lên 1.800-1.810 USD/ounce.
Phiên này, đà giảm của lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm và đồng USD cũng làm tăng sức hấp dẫn của vàng. Theo thống kê, đà tăng của lợi suất trái phiếu đã khiến vàng giảm 6% kể từ đầu năm đến nay. Goldman Sachs dự báo giá vàng có thể tăng lên 2.000 USD/ounce trong sáu tháng tới đồng thời cho rằng vẫn còn quá sớm để bitcoin cạnh tranh với vàng trong vị thế là tài sản an toàn.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm từ mức cao nhất 10 năm trước thông báo chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ, nhưng các nhà phân tích tại Goldman Sachs đã dự đoán đợt tăng giá lên mức kỷ lục.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,3% xuống 9.884,5 USD/tấn sau khi đạt 9.965 USD trong ngày 27/4, cao nhất kể từ năm 2011.
Mối đe dọa đình công tại các mỏ đồng ở Chile đã giảm bớt sau khi nước này cho phép giảm tiền lương hưu một lần nữa làm hài lòng người lao động.
Giá đồng đã tăng hơn gấp đôi kể từ tháng 3/2020 do kinh tế thế giới phục hồi làm tăng khả năng thiếu hụt nguồn cung đồng. Nhà phân tích tại Commerzbank nhận định giá đồng sẽ có lúc vượt mức tâm lý quan trọng 10.000 USD, và mức cao kỷ lục là 10.190 USD sẽ có thể bị phá vỡ ngay sau đó.
Goldman Sachs dự báo đồng sẽ đạt trung bình 9.675 USD/tấn trong năm 2021 và 11.875 USD/tấn trong năm 2022 và 12.000 USD/tấn trong năm 2023.
Nguồn cung dồi dào trong năm tới và trong năm 2023 khiến thị trường cân bằng, nhưng các công ty khai thác mỏ cần bắt đầu đầu tư vào công suất mới hiện nay để đáp ứng sự phục hồi trong tăng trưởng nhu cầu.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm sau khi đạt đỉnh cao trong lịch sử ở phiên liền trước do Chính phủ nước này có thể sẽ đưa ra biện pháp kiểm soát giá và hạn chế sản lượng thép.
Hiệp hội sắt thép Trung Quốc cho biết giá quặng sắt tăng nhanh chóng là không hợp lý, ngành công nghiệp này nên tăng cường khai thác nguồn lực cả trong và ngoài nước và cũng cải thiện các quy định cho thị trường kỳ hạn.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1% xuống 1.139 CNY (175,59) USD/tấn; quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe tới cảng biển Trung Quốc phiên liền trước tăng 4 USD lên 194,5 USD/tấn trong ngày 27/4.
Cũng trong phiên vừa qua, giá thép thanh tại Thượng Hải giao tháng 10 giảm 0,7% xuống 5.358 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 1% xuống 5.691 CNY/tấn. Thép không gỉ giao tháng 6 tăng 2,2% lên 14.660 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương trên sàn giao dịch Chicago giảm vào lúc đóng cửa mặc dù trước đó có lúc tăng do hoạt động bán chốt lời.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7 giảm 5-3/4 US cent xuống 15,13-3/4 USD/bushel; lúa mì CBOT vụ đông mềm đỏ kỳ hạn tháng 7 giảm 10 US cent xuống 7,22-3/4 USD/bushel; lúa mì cứng đỏ vụ đông giao cùng kỳ hạn giảm 14-3/4 US cent xuống 6,96-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa giảm 0,64 US cent hay 3,6% xuống 17,3 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 17,7 USD hay 3,7% xuống 462,7 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường này xuất hiện việc mua quá nhiều sau khi giá tăng gần đây, bổ sung rằng sự suy yếu trong đầu phiên giao dịch này đã kích hoạt một số lệnh bán trên bảng điện tử khi các nhà đầu tư chốt lời. Một số nhà đầu tư rời khỏi hợp đồng này trước khi nó đáo hạn vào ngày 30/4.
Commerzbank cho biết các nguồn cung đã cải thiện trong mùa này từ các nhà sản xuất quan trọng Liên minh Châu Âu, Ấn Độ và Thái Lan sẽ khiến thị trường ở vị trí cân bằng, mặc dù tình trạng hạn hán kéo dài ở Brazil đang làm gia tăng lo lắng.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 thay đổi ít tại 1,4585 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 7 USD hay 0,5% lên 1.468 USD/tấn.
Bất chấp dự đoán sản lượng giảm tại nhà sản xuất hàng đầu Brazil, tồn kho cà phê arabica trên sàn ICE tiếp tục tăng trong 3 ngày qua, hướng tới 2 triệu bao.
Starbucks không đạt doanh số ước tính trong quý, khiến cổ phiếu giảm 2%, mặc dù chuỗi quán cà phê đã nâng dự báo doanh thu và lợi nhuận hàng năm khi kỳ vọng nhiều khác hàng sẽ trở lại.
Giá hàng hóa thế giới sáng 29/4/2021
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
64,22
|
+0,36
|
+0,56%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
67,64
|
+0,37
|
+0,55%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
42.510,00
|
+90,00
|
+0,21%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,93
|
+0,05
|
+1,81%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
207,70
|
+0,48
|
+0,23%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
194,50
|
+0,64
|
+0,33%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
539,00
|
-0,25
|
-0,05%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
57.840,00
|
+510,00
|
+0,89%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.788,90
|
+15,00
|
+0,85%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.222,00
|
+28,00
|
+0,45%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
26,53
|
+0,41
|
+1,58%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
92,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.231,34
|
+9,70
|
+0,79%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.953,62
|
+19,01
|
+0,65%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
453,95
|
+4,20
|
+0,93%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.876,00
|
+20,50
|
+0,21%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.399,50
|
+3,50
|
+0,15%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.919,50
|
-6,00
|
-0,21%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
28.539,00
|
+1.389,00
|
+5,12%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
647,25
|
+3,25
|
+0,50%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
725,25
|
+2,50
|
+0,35%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
408,00
|
+0,50
|
+0,12%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,50
|
+0,03
|
+0,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.522,25
|
+8,50
|
+0,56%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
422,10
|
+0,30
|
+0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,91
|
+0,75
|
+1,23%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
647,25
|
+3,25
|
+0,50%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.472,00
|
-6,00
|
-0,24%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
145,85
|
-0,05
|
-0,03%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,14
|
-0,61
|
-3,44%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
114,00
|
-0,90
|
-0,78%
|
Bông
|
US cent/lb
|
89,90
|
+0,38
|
+0,42%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
1.296,50
|
+15,50
|
+1,21%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
169,50
|
+2,10
|
+1,25%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,33
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:VITIC/Reuters, Bloomberg