menu search
Đóng menu
Đóng

TT hàng hóa quốc tế tháng 3/2021: Giá dầu, vàng và cà phê đều giảm

13:16 01/04/2021

Tháng 3, thị trường hàng hóa quốc tế bị tác động mạnh bởi dịch Covid-19 gia tăng ở Châu Âu và đồng USD mạnh lên.
 
Năng lượng: Giá dầu Brent tháng 3 tăng, dầu WTI giảm
Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng, giá dầu tiếp tục giảm khi đợt phong tỏa mới ở Châu Âu làm dấy lên ngại nhu cầu nhiên liệu sẽ giảm, giữa lúc OPEC+ hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu trước thềm cuộc họp ngày 1/4.
Khép lại phiên này, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 5, đáo hạn vào ngày 31/3, giảm 60 US cent, hay 0,9%, xuống 63,54 USD/thùng; hợp đồng tháng 6/2021 giảm 1,43 USD, hay 2,2%, xuống 62,74 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 1,39 USD, hay 2,3% xuống còn 59,16 USD/thùng.
Tính chung cả tháng 3, giá dầu Brent giảm 3,9%, nhưng tăng 22,6% tính chung cả quý I/2021, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 3,8% trong tháng 3 và tăng 21,9% trong quý I.
Đà tăng trong quý I của giá dầu chủ yếu là nhờ tâm lý lạc quan về sự phục hồi trong nhu cầu sau khi vaccine ngừa COVID-19 bắt đầu được triển khai tiêm chủng.
Tuy nhiên, những kỳ vọng này đã giảm đi phần nào trong tháng này, khi sự gia tăng mạnh số ca mắc COVID-19 có nguy cơ gây quá tải cho các bệnh viện ở các nước châu Âu và làm giảm nhu cầu dầu.
Giá dầu nới rộng đà giảm trong phiên ngày 31/3 sau khi Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ban bố lệnh phong tỏa thứ ba trên cả nước và đóng cửa các trường học trong ba tuần để tìm cách đẩy lùi làn sóng lây nhiễm COVID-19 lần thứ ba.
Bên cạnh đó, việc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, điều chỉnh giảm 300.000 thùng dầu/ngày trong dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu trong năm nay cũng ảnh hưởng đến giá “vàng đen”. OPEC+ dự kiến sẽ nhóm họp trong ngày 1/4 để quyết định chính sách sản lượng.
Tuy nhiên, đà giảm của giá dầu trong phiên này đã phần nào bị hạn chế khi lượng dầu thô dự trữ của Mỹ bất ngờ giảm 876.000 thùng trong tuần trước do hoạt động lọc dầu gia tăng, trái ngược với dự đoán tăng 107.000 thùng của giới phân tích, theo số liệu của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA).
Ngoài ra, sản lượng dầu thô của Mỹ, nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới, đã giảm xuống còn 11,1 triệu thùng/ngày trong tháng Một, thấp hơn 13,1% so với cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu mới nhất.
Kim loại quý: Giá vàng quý I giảm mạnh nhất kể từ cuối tháng 12/2016.
Phiên 31/3, giá vàng thế giới tăng hơn 1% nhờ sự suy yếu của đồng USD. Song, đà tăng của lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ vẫn khiến giá kim loại này hướng đến quý giảm lớn nhất trong hơn bốn năm.
Chốt phiên này, giá vàng giao ngay tăng 1,6% lên 1.711,27 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 8/3 tại 1.677,61 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6 tăng 1,8% lên 1.715,6 USD/ounce.
Tính chung trong quý I, giá vàng đã giảm hơn 9% và là quý giảm mạnh nhất kể từ cuối tháng 12/2016.
David Meger, Giám đốc phụ trách giao dịch kim loại tại High Ridge Futures, nhận định giá vàng đã rời khỏi các mức thấp, khi lợi suất trái phiếu giữ ổn định và đồng bạc xanh lùi khỏi các mức cao gần đây. Trước đó, đồng USD có thời điểm chạm mức cao nhất trong gần 5 tháng.
Theo ông Meger, kế hoạch chi tiêu “khủng” của Tổng thống Mỹ Joe Biden cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng đang góp phần thúc đẩy những lo ngại về lạm phát và đây sẽ là nhân tố hỗ trợ thị trường vàng.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của TD Securities đánh giá thị trường đang chờ xem liệu giá vàng có giữ được ngưỡng hỗ trợ 1.680 USD/ounce hay không.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 2,8% lên 1.186,49 USD/ounce, giá palađi tăng 1,3% lên 2.622,49 USD/ounce; giá bạc tăng 1,5% lên 24,38 USD/ounce, tính chung cả tháng 3 giá bạc giảm hơn 8%.
Nornickel, một nhà sản xuất bạch kim và palladium lớn của Nga, cho biết đã ngừng cung cấp nước vào hai mỏ chính của hãng ở Siberia (Bắc Cực). Việc đóng cửa mỏ ở Bắc Cực đã làm giảm đáng kể sản lượng bạch kim và palladium và có thể dẫn đến một sự thắt chặt thị trường hơn so với dự đoán trước đây.
Kim loại công nghiệp: Giá hầu hết tăng trong quý I, ngoại trừ nickel
Phiên cuối cùng của tháng 3/2021, giá đồng tăng do số liệu sản xuất mạnh mẽ tại Trung Quốc và hy vọng về đợt chi tiêu cho cơ sở hạ tầng mới của Mỹ. Tuy nhiên, USD mạnh hơn và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng đã hạn chế đà tăng của giá đồng.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc trong tháng 3 mở rộng với tốc độ nhanh nhất 3 tháng, trong khi Tổng thống Mỹ Joe Biden chuẩn bị công bố gói cơ sở hạ tầng trị giá khoảng 2 nghìn tỷ USD.
USD mạnh lên đạt mức cao nhất trong nhiều tháng so với các đồng tiền chủ chốt đã gây sức ép cho thị trường kim loại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 0,1% lên 8.783 USD/tấn. Nhưng tính chung cả tháng giá đã giảm 3,3% và theo xu hướng tháng giảm đầu tiên kể từ tháng 3/2020. Giá đồng trên sàn LME biến động trong một phạm vi hẹp kể từ khi giảm từ mức đỉnh 9,5 năm đã chạm tới trong cuối tháng 2, nhưng đã tăng khoảng 25% kể từ đầu năm nay.
Mặc dù giảm trong tháng 3 nhưng giá đồng quý I đã tăng trên 13%. Các kim loại khác cũng đều tăng trong quý này, theo đó nhôm tăng 12%, thép tăng 14%, quặng sắt tăng 4%...
Giá quặng sắt của Trung Quốc giảm do việc thực thi chính sách môi trường của nước này đã gây áp lực lên nhu cầu thành phần sản xuất thép này.
Cơ quan quản lý môi trường tại Đường Sơn, thành phố sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc gần đây đã cử 100 người xuống 25 nhà máy để đảm bảo các nhà máy thép tuân theo chính sách kiểm soát sản xuất.
Phiên 31/3, giá quặng sắt giao tháng 5 trên sàn Đại Liên giảm 1,4% xuống 1.80 CNY (164,7 USD)/tấn và hợp đồng giao tháng 9 giảm 3% xuống 931 CNY/tấn. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe ở Trung Quốc giảm 2 USD xuống 166 USD/tấn trong ngày 30/3.
Các thành phần sản xuất thép khác diễn biến trái chiều. Giá thép thanh ở Thượng Hải giảm 0,6% xuống 4.935 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,5% lên 5.383 CNY/tấn.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương tăng, các nông sản khác hầu hết giảm trong quý I
Giá đậu tương tương trên sàn giao dịch Chicaogo đóng cửa tăng ở mức cao nhất trong giới hạn một ngày, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo diện tích gieo trồng năm 2021 giảm thấp hơn hầu hết các dự báo thương mại.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng ở mức tối đa một ngày 70 US cent lên 14,36-3/4 USD/bushel, kỳ hạn tháng 11 – đại diện cho vụ năm 2021 tăng 70 US cent lên 12,56-1/4 USD/bushel. Giá khô đậu tương kỳ hạn tháng 5 tăng tối đa một ngày 25 USD lên 423,2 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa phiên 31/3 giảm 0,15 US cent hay 1% xuống 14,77 US cent/lb sau khi thiết lập mức thấp nhất 3 tháng tại 14,67 US cent. Đường trắng cùng kỳ hạn giảm 9,8 USD hay 2,3% xuống 420 USD/tấn.
Nhu cầu lúc này thấp, nhất là tại Châu Âu, trong khi sản lượng của Thái Lan dự báo tăng làm giảm lo ngại về nguồn cung khan hiếm trong ngắn hạn. Nhà môi giới StoneX điều chỉnh tăng dự báo sản lượng đường của Thái Lan cũng như Pakistan và Mỹ, thiếu hụt đường ít hơn trong niên vụ này.
Trong khi đó, nhu cầu ethanol tại Brazil thấp trong bối cảnh phong tỏa chống Covid-19 là yếu tố giảm giá, tăng thêm động lực cho các nhà máy sản xuất đường thay vì nhiên liệu sinh học.
Pakistan đã cho phép nhập khẩu 0,5 triệu tấn đường trắng từ Ấn Độ, một bước hướng tới phục hồi thương mại đình trệ giữa các đối thủ này.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa phiên cuối tháng tăng 0,9 US cent hay 0,7% lên 1,235 USD/lb, trước đó giá đã xuống mức thấp nhất 1,5 tháng tại 1,2050 USD. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 giảm 6 USD hay 0,4% xuống 1.342 USD/tấn.
Thị trường tiếp tục được củng cố bởi khả năng Brazil ít cà phê arabica hơn trong niên vụ 2021/22, một năm trái vụ trong chu kỳ 2 năm một lần tại đây.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá 1/3

Giá 31/3

31/3 so với 30/3

31/3 so với 30/3 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

59,56

59,34

+0,18

+0,30%

Dầu Brent

USD/thùng

62,66

63,54

-0,60

-0,94%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.390,00

41.190,00

-1.060,00

-2,51%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

2,60

-0,01

-0,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

190,77

195,33

-3,57

-1,79%

Dầu đốt

US cent/gallon

179,04

177,13

-1,79

-1,00%

Dầu khí

USD/tấn

508,50

495,00

-10,25

-2,03%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.200,00

54.780,00

-1.320,00

-2,35%

Vàng New York

USD/ounce

1.711,00

1.713,10

-2,50

-0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.900,00

6.085,00

+75,00

+1,25%

Bạc New York

USD/ounce

26,11

24,38

-0,15

-0,62%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,10

88,10

+1,40

+1,61%

Bạch kim

USD/ounce

1.182,65

1.188,70

+1,27

+0,11%

Palađi

USD/ounce

2.354,75

2.620,98

-6,58

-0,25%

Đồng New York

US cent/lb

407,05

398,00

-1,55

-0,39%

Đồng LME

USD/tấn

9.044,00

8.785,50

+12,00

+0,14%

Nhôm LME

USD/tấn

2.129,50

2.212,00

-19,00

-0,85%

Kẽm LME

USD/tấn

2.816,00

2.818,50

+8,50

+0,30%

Thiếc LME

USD/tấn

23.460,00

25.388,00

+78,00

+0,31%

Ngô

US cent/bushel

532,75

581,00

+16,75

+2,97%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

648,25

623,75

+5,75

+0,93%

Lúa mạch

US cent/bushel

362,75

375,75

-3,00

-0,79%

Gạo thô

USD/cwt

13,12

13,20

+0,02

+0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.384,00

1.438,00

+1,25

+0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

416,00

423,50

+0,30

+0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

48,77

52,84

-0,08

-0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

596,00

620,60

+1,10

+0,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.639,00

2.348,00

+1,00

+0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

135,80

123,50

+0,90

+0,73%

Đường thô

US cent/lb

16,21

14,77

-0,15

-1,01%

Nước cam

US cent/lb

113,60

110,60

-0,40

-0,36%

Bông

US cent/lb

90,29

81,09

+0,21

+0,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

815,70

1.009,10

+19,50

+1,97%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,40

164,20

+1,30

+0,80%

 

 

Nguồn:VITIC/Reuters, Bloomberg