menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng hợp thị trường hàng hóa TG phiên 4/6: Giá hầu hết giảm

10:00 05/06/2024

Phiên thứ Ba (4/6), giá hầu hết các hàng hóa nguyên liệu đều giảm.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm hơn 1 USD/thùng do sự hoài nghi về quyết định của OPEC + nhằm tăng nguồn cung trên thị trường toàn cầu vào cuối năm nay, khi mà nhu cầu đã có dấu hiệu suy yếu.
Kéo dài đà giảm từ mức thấp nhất trong 4 tháng chạm tới vào thứ Hai, giá dầu thô Brent kỳ hạn tương lai giảm 84 cent, tương đương 1,07%, xuống 77,52 USD/thùng. Giá đóng cửa dầu Brent hôm thứ Hai lần đầu tiên kể từ ngày 7 tháng 2 ở dưới 80 USD sau khi giảm hơn 3%.
Ở mức thấp nhất vào thứ Ba, dầu Brent giao dịch ở mức 76,76 USD, thấp hơn 2 USD so với mức thấp nhất của năm nay là 74,79 USD hồi đầu tháng 1.
Hợp đồng dầu thô WTI kỳ hạn tương lai của Mỹ kết thúc phiên cũng giảm 97 cent, tương đương 1,31%, xuống 73,25 USD. Dầu WTI đã giảm 3,6% vào thứ Hai và duy trì gần mức thấp nhất trong 4 tháng.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đồng minh do Nga dẫn đầu, được gọi là OPEC+, đã đồng ý gia hạn phần lớn việc cắt giảm sản lượng dầu của họ đến năm 2025 nhưng vẫn chừa chỗ cho việc cắt giảm tự nguyện từ 8 thành viên sẽ được dỡ bỏ dần dần, bắt đầu từ tháng 10/2024.
Nhà phân tích Phil Flynn thuộc Price Futures Group cho biết: “Nhận định của tôi là thị trường đang phản ứng thái quá với thông báo của OPEC”.
Việc gỡ bỏ chương trình cắt giảm sản lượng theo kế hoạch vào tháng 10 làm tăng thêm nỗi lo lắng về tình trạng dư cung trong một môi trường mà các nhà giao dịch đã lo sợ về việc lãi suất cao cản trở hoạt động kinh tế toàn cầu. Một loạt các tín hiệu lờ mờ từ các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc và Châu Âu cho thấy nhu cầu dầu của họ có thể không tốt như mong đợi trong thời gian còn lại của năm nay.
Ông Flynn nói: “Nếu chúng ta thấy giá dầu giảm đáng kể thì bạn sẽ phải đặt câu hỏi về sự lành mạnh của nền kinh tế toàn cầu”. “Khi đó có vẻ như Cục Dự trữ Liên bang đã làm quá nhiều.”
Trên hết, nguồn cung đang tăng lên từ các nhà sản xuất ngoài OPEC như Mỹ.
Trong khi đó, về phía cầu tại quốc gia tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới, dữ liệu dầu hàng tuần của Mỹ sẽ cho thấy lượng xăng được tiêu thụ trong dịp lễ Ngày Tưởng niệm vào tuần trước, thời điểm bắt đầu mùa lái xe ở Mỹ.
Viện Dầu khí Mỹ sẽ công bố dữ liệu tồn kho vào chiều thứ Ba. Chính phủ Mỹ sẽ công bố dữ liệu về hàng tồn kho và sản phẩm được cung cấp vào thứ Tư.
Kim loại quý: Giá vàng giảm hơn 1% vào thứ Ba khi đồng USD ổn định trước khi dữ liệu việc làm của Mỹ được công bố vào cuối tuần này, điều này có thể vạch ra xu hướng cho chiến lược lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang.
Vàng giao ngay cuối phiên giảm 0,9% xuống 2.329,10 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 8/2024 giảm 0,9% xuống 2.347,4 USD/ounce.
Vàng đã đảo ngược mức tăng ở cuối phiên trước đó sau khi dữ liệu sản xuất của Mỹ yếu đi. Giá tài sản trú ẩn an toàn cũng giảm bất chấp sự sụt giảm của Phố Wall.
Bart Melek, người phụ trách bộ phận chiến lược hàng hóa tại TD Securities, cho biết: “Có lẽ đã có một chút phản ứng đối với đồng đô la Mỹ” và yếu tố chốt lời đối với vàng.
Chỉ số đồng đô la ổn định khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua ở nước ngoài, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 4 chỉ sau một đêm.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ công bố vào thứ Sáu để biết rõ hơn về việc cắt giảm lãi suất. Lãi suất hạ sẽ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không sinh lãi suất.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao tại Kitco Metals, cho biết dữ liệu việc làm yếu có thể thúc đẩy vàng phục hồi trong ngắn hạn, trong khi số liệu mạnh hơn sẽ gây áp lực lên vàng vì nó có thể cho thấy Fed sẽ có một "thời gian khó khăn hơn" trong việc cắt giảm lãi suất.
Nhìn chung, “vàng có khả năng đi ngang, nếu không muốn nói là đi ngang để giảm nhẹ trong vài tuần tới, trừ khi xảy ra một sự kiện địa chính trị bất ngờ sẽ thúc đẩy nhu cầu trú ẩn an toàn”.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng chú ý đến kết quả bầu cử ở Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới.
Chiến lược gia hàng hóa Soni Kumari của ANZ cho biết: “Nếu chứng khoán tiếp tục sụt giảm, sẽ có một số quỹ đổ vào vàng”.
Các nhà phân tích cho biết, sự sụt giảm chung của hàng hóa, dẫn đầu là dầu, cũng có thể góp phần vào tâm lý giảm giá của kim loại quý.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giảm 3,8% xuống 29,59 USD/ounce, bạch kim giảm 1,6% xuống 995,50 USD/ounce và palladium giảm 0,1% xuống 916,50 USD/ounce.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng lần đầu tiên sau ba tuần giảm xuống dưới mốc quan trọng 10.000 USD/tấn do do nhu cầu mờ nhạt ở nước tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn giảm 2,1% xuống còn 9.936,5 USD/tấn lúc kết thúc phiên vừa qua. Trước đó, giá đã giảm xuống còn 9.924,8 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 8 tháng 5.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Dữ liệu sản xuất của Mỹ yếu hơn dự kiến. Và lượng đồng tồn kho ở Thượng Hải, được theo dõi chặt chẽ như một thước đo về nhu cầu vật chất, vẫn ở mức cao”. Ông nói thêm: “Xu hướng giá đồng giảm có thể tiếp tục cho đến khi chúng tôi thấy bằng chứng rõ ràng về sự phục hồi sản xuất toàn cầu”.
Dữ liệu kinh tế của Mỹ yếu làm gia tăng khả năng Cục Dự trữ Liên bang cắt giảm lãi suất sớm, giúp đồng đô la phục hồi từ mức thấp nhất kể từ giữa tháng 3.
Đồng đô la mạnh lên khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Giá đồng, được sử dụng rộng rãi trong dây cáp và cơ sở hạ tầng vì tính dẫn điện của nó, đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại trên các sàn giao dịch ở London, Chicago và Thượng Hải trong hai tháng qua. Khối lượng giao dịch đồng trong tháng 5 đạt mức cao lịch sử, trong khi vị thế mua các hợp đồng đồng vẫn gần mức kỷ lục.
Nhưng sự phục hồi giá đồng đã làm giảm nhu cầu hàng thực. Tồn trữ kho đồng trên sàn LME tăng lên mức cao nhất 6 tuần, là 118.950 tấn, do được giao đến các kho đăng ký ở thị trường Đài Loan.
Tồn kho tại Thượng Hải cũng duy trì ở mức gần 300.000 tấn kể từ tháng 3. Tồn kho đồng của Trung Quốc vẫn chưa bắt đầu giảm theo mùa, cho thấy thị trường đồng được cung cấp đầy đủ hơn nhiều so với một số thương nhân nghĩ.
Ông Menke cho biết trong tương lai, dữ liệu công nghiệp của Trung Quốc vào giữa tháng 6 sẽ làm sáng tỏ hơn về nhu cầu kim loại vào cuối năm nay.
Về những kim loại khác, giá kẽm trên sàn LME chạm mức thấp nhất trong 3 tuần, là 2.905 USD. Kim loại mạ kẽm này kết thúc phiên giảm 0,5% xuống 2.928,5 USD.
Giá nhôm trên sàn LME giảm 0,2% xuống 2.658 USD/tấn, niken giảm 1,7% xuống 19.085 USD, thiếc giảm 1,3% xuống 31.930 USD, trong khi chì giảm 1,8% ở mức 2.246,5 USD.
Giá quặng sắt tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong gần 7 tuần, do có dấu hiệu suy yếu cả về nhu cầu ngắn hạn và triển vọng hấp thụ trung và dài hạn ở quốc gia tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc - và hàng tồn kho ở các cảng biển tiếp tục ở mức cao.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 2,11% xuống 834 nhân dân tệ (115,11 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 17 tháng 4, sau khi giảm hơn 2% vào thứ Hai.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 7 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 2,21% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 17 tháng 4, còn 108,2 USD/tấn, mất đi hoàn toàn mức tăng trước đó nhờ kỳ vọng ngày càng tăng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ yếu hơn dự kiến.
Zhuo Guiqiu, nhà phân tích tại Jinrui Futures cho biết: “Một số nhà sản xuất thép đã thu hẹp quy mô thu mua nguyên liệu thô bao gồm quặng sắt sau khi sản lượng kim loại nóng giảm mạnh vào tuần trước và tồn kho thép tăng do nhu cầu ở hạ nguồn giảm”. Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy khối lượng giao dịch quặng sắt tại các cảng lớn vào thứ Hai giảm 17% so với phiên trước xuống 735.000 tấn. Ông Zhuo cho biết thêm: “Tồn kho tại cảng tăng cao. Ngoài ra, kỳ vọng về việc kiểm soát sản lượng thép thô vào cuối năm đã làm trầm trọng thêm lo lắng về việc tiêu thụ quặng giảm, khiến giá cả giảm sút”.
Những thay đổi về nguồn cung thép đã được chú trọng sau khi Bắc Kinh vào tuần trước nhắc lại ý định kiểm soát sản lượng thép thô hơn nữa trong năm nay và do nhu cầu giảm trong bối cảnh nhiệt độ tăng và dự báo sẽ có mưa lớn ở các khu vực phía Nam.
Giá nguyên liệu sản xuất thép quan trọng đã giảm hơn 6% so với tuần trước, ngay cả khi nhiều biện pháp kích thích khu vực dành cho thị trường bất động sản được công bố để thúc đẩy lĩnh vực đang gặp khó khăn.
Giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tiếp tục giảm. Thép cây giảm 0,9%, thép cuộn cán nóng giảm 0,58%, thép dây giảm 0,77% và thép không gỉ giảm 0,69%.
Các nhà phân tích tại Hongyuan Futures cho biết sản lượng thép thô của Trung Quốc vào năm 2024 có thể giảm xuống còn 1,015 tỷ tấn, từ mức khoảng 1,019 tỷ tấn vào năm 2023.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm trong bối cảnh giao dịch nhiều biến động khi các thương nhân cân nhắc tiến độ trồng trọt của Mỹ.
Các thương nhân cho biết hạn hán và nắng nóng gay gắt tại Mexico, quốc gia nhập khẩu ngô hàng đầu của Mỹ, có thể gây thiệt hại cho mùa màng của nước này và kích thích nhu cầu ngô Mỹ.
Cơ quan trồng trọt Emater hôm thứ Ba cho biết, thiệt hại đậu tương liên quan đến lũ lụt gần đây ở bang cực nam Rio Grande do Sul của Brazil ước tính khoảng 2,71 triệu tấn, phù hợp với dự báo là từ 2,8 triệu đến 3 triệu tấn.
Kết thúc phiên này, hợp đồng ngô kỳ hạn giao dịch nhiều nhất trên sàn (CBOT) giảm 1 US cent, đóng cửa ở mức 4,42-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương giảm 5-1/2 cent xuống mức 11,79 USD/bushel. Giá lúa mì giảm 14-1/2 cent xuống mức 6,58-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 tăng 0,08 cent, tương đương 0,4%, lên 18,86 cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất trong hai tuần là 18,90. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 0,6% lên 555,80 USD/tấn.
Các đại lý cho biết tốc độ sản xuất đường ở Trung-Nam Brazil trong nửa đầu tháng 5 chậm hơn dự kiến đã giúp thúc đẩy giá sự phục hồi từ mức thấp nhất trong 18 tháng là 17,95 cent vào giữa tháng 5.
Thời tiết ở Brazil sẽ vẫn khô hạn cho đến ít nhất là giữa tháng 6, làm dấy lên lo ngại về việc kết thúc vụ mùa. Công nhân tại nhà sản xuất đường lớn nhất Australia sẽ tạm thời ngừng hoạt động công nghiệp sau khi công ty này thông báo rằng những người tham gia đình công, một đại diện công đoàn cho biết.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn trên sàn ICE tăng hơn 3% vào thứ Ba, trong khi cà phê Robusta tăng trở lại mức cao nhất một tháng của tuần trước.
Cà phê Robusta tháng 7 tăng 60 USD, tương đương 1,4%, lên 4.332 USD/tấn. Tháng trước, giá Robusta đã đạt mức cao nhất trong một tháng là 4.388 USD, vào ngày 30 tháng 5. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 tăng 3,2% lên 2,339 USD/lb.
Các đại lý cho biết tốc độ xuất khẩu chậm từ nhà sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam - khiến thị trường tiếp tục trong tình trạng thắt chặt nguồn cung, trong khi vẫn còn những lo ngại về vụ mùa tiếp theo ở Việt Nam do thời tiết thất thường.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, vụ cà phê Brazil niên vụ 2024/25 (từ tháng 7 đến tháng 6) ước tính đạt 69,9 triệu bao loại 60kg, tăng 5,4% so với vụ trước. Xuất khẩu cà phê của Honduras tăng 13,7% trong tháng 5 so với một năm trước đó.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tiếp tục giảm vào thứ Ba do thị trường phải đối mặt với áp lực từ giá dầu thô giảm.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa giảm 5,7 yên, tương đương 1,7%, xuống 330,8 yên/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 210 nhân dân tệ, tương đương 1,4%, xuống 15.005 nhân dân tệ/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn SICOM của Singapore Exchange giảm 1,1% xuống 173,0 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

72,92

-0,33

-0,45%

Dầu Brent

USD/thùng

77,52

-0,84

-1,07%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

233,15

-1,80

-0,77%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,62

+0,03

+1,31%

Dầu đốt

US cent/gallon

228,50

-0,09

-0,04%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.347,00

-0,40

-0,02%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.328,23

+1,22

+0,05%

Bạc (Comex)

USD/ounce

29,67

+0,05

+0,16%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

993,81

+0,96

+0,10%

Đồng (Comex)

US cent/lb

454,70

+1,00

+0,22%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.945,00

-198,00

-1,95%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.663,50

+2,00

+0,08%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.935,00

-8,00

-0,27%

Thiếc (LME)

USD/tấn

31.932,00

-418,00

-1,29%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

442,50

-1,00

-0,23%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

658,25

-14,50

-2,16%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

365,50

-9,25

-2,47%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

15,41

-0,22

-1,41%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.179,00

-5,50

-0,46%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

355,10

-4,40

-1,22%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

43,62

-0,52

-1,18%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

628,00

-6,40

-1,01%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.557,00

-218,00

-2,23%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

233,90

+7,35

+3,24%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

18,86

+0,08

+0,43%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

441,00

-16,20

-3,54%

Bông (ICE)

US cent/lb

73,51

+0,16

+0,22%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

174,50

-2,00

-1,13%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)