Năng lượng: Giá nhất loạt giảm trong tháng 1
Tháng 1/2024, giá xăng dầu, khí đốt và than đồng loạt giảm.
Phiên cuối cùng của tháng 1, giá dầu giảm do hoạt động kinh tế tại Trung Quốc – thị trường nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới – suy yếu và tồn trữ dầu thô của Mỹ bất ngờ tăng sau khi các nhà sản xuất thúc đẩy sản lượng sau thời tiết băng giá trong tháng này.
Kết thúc phiên giao dịch 31/1, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 3/2024 (đáo hạn vào phiên này) giảm 1,16 USD, tương đương 1,4%, xuống 81,71 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 4/2024 giảm 1,89 USD, tương đương 2,3%, xuống 80,55 USD/thùng. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,97 USD, tương đương 2,5%, xuống 75,85 USD/thùng.
Tính chung trong tháng 1, giá dầu Brent và WTI giảm khoảng 5%.
Kết quả một cuộc khảo sát chính thức cho thấy hoạt động sản xuất tại Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới – tháng 1/2024 giảm tháng thứ 4 liên tiếp.
Dấu hiệu mới nhất cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang nỗ lực lấy lại động lực xuất hiện vài ngày sau khi tòa án ra lệnh thanh lý công ty phát triển bất động sản gặp khó khăn China Evergrande. Lĩnh vực bất động sản chiếm 1/4 GDP của Trung Quốc.
Các nhà dự báo hàng đầu thế giới, bao gồm Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), nhận thấy tăng trưởng nhu cầu dầu vào năm 2024 chủ yếu do tiêu dùng của Trung Quốc.
Nhà phân tích Tamas Varga của công ty môi giới dầu mỏ PVM cho biết: “Dữ liệu của nhà máy xác nhận quan điểm của chúng tôi rằng Trung Quốc, ít nhất là ở thời điểm hiện tại, là trở ngại cho tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu”.
Ngoài ra, giá dầu chịu áp lực giảm khi số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước tăng 1,2 triệu thùng, trái ngược với dự báo giảm 217.000 thùng của các nhà phân tích.
Sản lượng dầu nội địa Mỹ trong tuần trước tăng lên 13 triệu thùng/ngày, sau khi công suất gần 1 triệu thùng/ngày bị đóng cửa do thời tiết lạnh hồi đầu tháng này.
Trong khi đó, theo EIA, lượng dầu thô chạy trong các nhà máy lọc dầu giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2023 do thời tiết, khiến tỷ lệ sử dụng nhà máy lọc dầu xuống 82,9%.
Bob Yawger, giám đốc phụ trách mảng năng lượng tương lai tại Mizuho cho biết: “Các nhà tinh chế sẽ không vội vàng quay trở lại tỷ lệ trên 90%.
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách Mỹ tuần này đã quyết định giữ nguyên lãi suất. Dự đoán của các nhà kinh tế cho rằng việc cắt giảm khó có thể xảy ra trước tháng 6, do chi tiêu hộ gia đình tiếp tục mạnh mẽ và sự không chắc chắn về triển vọng kinh tế.
Cuộc chiến Israel-Hamas đã mở rộng thành xung đột ở Biển Đỏ giữa Mỹ và phiến quân Houthi. Nhưng trong khi điều đó làm gián đoạn hoạt động vận chuyển tàu chở dầu và khí đốt tự nhiên, khiến chi phí giao hàng tăng cao và bắt đầu ảnh hưởng đến nguồn cung dầu, một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy sản lượng kỷ lục ở phương Tây và tăng trưởng kinh tế chậm sẽ hạn chế giá cả và hạn chế mọi rủi ro địa chính trị.
Nhà phân tích thị trường Tony Sycamore của IG cho biết: “Vấn đề chính khiến dầu thô tăng giá ở đây là bức tranh kỹ thuật vẫn giảm và vẫn chưa theo kịp các sự kiện gần đây”. Nhóm Houthi của Yemen hôm thứ Tư cho biết họ sẽ tiếp tục tấn công các tàu chiến của Mỹ và Anh ở Biển Đỏ trong cái mà họ gọi là hành động tự vệ, làm dấy lên lo ngại về sự gián đoạn lâu dài đối với thương mại toàn cầu.
Về phía nguồn cung, một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy sản lượng dầu của OPEC trong tháng 1 đã ghi nhận mức giảm hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 7, do một số thành viên thực hiện cắt giảm sản lượng tự nguyện mới đã đồng ý với liên minh OPEC+ rộng lớn hơn và tình trạng bất ổn đã hạn chế sản lượng của Libya. Theo kết quả cuộc khảo sát, OPEC đã bơm 26,33 triệu thùng/ngày trong tháng này, giảm 410.000 thùng/ngày so với tháng 12. Tổng số tháng 12 loại bỏ Angola, quốc gia đã rời nhóm.
Kim loại quý: Giá vàng tăng nhẹ trong tháng 1, bạc giảm mạnh
Giá vàng giảm trong phiên 31/2 sau khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell đẩy lùi kỳ vọng cắt giảm lãi suất vào tháng 3/2024
Kết thúc phiên, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 2.034,37 USD/ounce. Tính chung tháng 1, giá giảm 1,3%. Vàng kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn New York cùng phiên tăng 0,8% lên 2.067,4 USD/ounce.
Tai Wong, nhà phân tích kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết ông Powell có đưa ra một số lưu ý ôn hòa nhưng nhận xét quan trọng là "không phải tháng 3", điều này sẽ làm giảm kỳ vọng vào việc cắt giảm lãi suất ở thời điểm hiện tại.
Vàng thỏi được coi là hàng rào chống lại lạm phát và những bất ổn kinh tế nhưng lãi suất tăng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lời.
Các nhà giao dịch đã giảm đặt cược vào thời điểm Mỹ cắt giảm lãi suất từ đầu tháng 3 và bây giờ họ cho rằng khả năng bắt đầu vào tháng 5 là có thể xảy ra.
Chỉ số đồng USD giảm, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp nhất gần 3 tuần sau phán quyết của Fed.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities, cho biết nhu cầu vàng vật chất và từ phía ngân hàng trung ương mạnh mẽ sẽ tiếp tục.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên cuối tháng giảm 1,2% xuống 22,88 USD/ounce, bạch kim giảm 0,4% xuống 917,20 USD, trong khi palladium tăng 0,3% lên 979,31 USD. Cả ba kim loại này đều giảm trong tháng 1, trong đó bạc giảm khoảng 6%.
Kim loại công nghiệp: Giá hầu hết tăng trong tháng 1
Trong tháng đầu tiên của năm 2024, giá hầu hết các kim loại công nghiệp cũng như quặng sắt đồng loạt tăng.
Phiên cuối cùng của tháng1/2024, giá đồng tăng lên mức cao nhất 1 tháng do đồng USD giảm sau khi Mỹ công bố dữ liệu về thị trường lao động.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) đạt 8.704,5 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 28/12/2023.
Chi phí lao động tại Mỹ tăng ít hơn dự kiến trong quý 4/2023, dẫn đến mức tăng hàng năm thấp nhất trong 2 năm, trong khi đó, báo cáo việc làm quốc gia của ADP cho thấy việc làm khu vực tư nhân tháng 1/2024 tăng ít hơn so với con số dự kiến là 107.000.
Chỉ số đồng USD giảm sau dữ liệu trên. Đồng USD suy yếu khiến kim loại định giá bằng đồng bạc xanh rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc trong tháng 1giảm tháng thứ 4 liên tiếp, cho thấy nền kinh tế nói chung đang gặp khó khăn để lấy lại động lực vào đầu năm 2024. Đồng nhân dân tệ tháng 1 giảm mạnh nhất trong 5 tháng, khi các ngân hàng quốc doanh lớn bán đô la để bảo vệ đồng tiền cả mình. Một nhà kinh doanh đồng cho biết: “Không có sự cải thiện nào về chỉ số PMI sản xuất của Trung Quốc”.
Trong khi đó, tồn trữ đồng trong các kho của sàn LME ở mức 146.475 tấn, giảm 24% kể từ tháng 10 và ở mức thấp nhất kể từ tháng 9.
Nhà chiến lược hàng hóa Nitesh Shah của WisdomTree cho biết, nhu cầu đối với các kim loại như đồng và nhôm của Trung Quốc vẫn cho thấy “khả năng phục hồi đáng kinh ngạc”, đồng thời trích dẫn mức đầu tư lưới điện kỷ lục và sản lượng tấm pin mặt trời ngày càng tăng.
Về các kim loại cơ bản khác, trên sàn LME, giá kẽm phiên cuối tuần giảm 1,5% xuống 2.525,5 USD/tấn, nhôm tăng 0,1% lên 2.276,5 USD, niken giảm 1,8% xuống 16.210 USD, chì CMPB3 giảm 0,9% xuống 2.156,5 USD trong khi thiếc tăng 0,8% lên 26.200 USD. Tính chung trong tháng 1, hầu hết các kim loại cơ bản đều tăng giá.
Đối với nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần, khi số liệu nhà máy của Trung Quốc suy yếu kéo dài tác động đến tâm lý nhà đầu tư, trong bối cảnh lo ngại mới về sự phục hồi của lĩnh vực bất động sản nước này.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên phiên này giảm 3,08% xuống 960,5 CNY (133,74 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 23/1/2024. Tuy nhiên, tính chung trong tháng 1 giá tăng khá mạnh, gần 8%. Qặng sắt kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Singapore phiên này giảm 2,36% xuống 129,7 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 23/1/2024.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,86%, thép cuộn cán nóng giảm 1,62%, thép cuộn giảm 1,19% và thép không gỉ giảm 1,7%. Tính chung trong tháng 1, giá thép biến động nhẹ không cùng chiều.
Một cuộc khảo sát chính thức cho thấy hôm thứ Tư, một cuộc khảo sát chính thức cho thấy hoạt động sản xuất của Trung Quốc trong tháng 1 đã giảm tháng thứ tư liên tiếp, cho thấy lĩnh vực này đang gặp khó khăn để lấy lại động lực vào đầu năm 2024.
Chu Xinli, nhà phân tích tại China Futures có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết giá quặng sắt chuyển hưởng giảm do đợt bổ sung nguyên liệu trước kỳ nghỉ lễ giữa các nhà máy thép đã kết thúc và tồn kho tại cảng đều tăng. “Tuy nhiên, khó có thể giảm rất mạnh c do nhu cầu được cải thiện trong bối cảnh sản lượng kim loại nóng tiếp tục tăng.”
Nông sản: Giá cao su và lúa mì tăng trong tháng 1, còn lại giảm
Phiên 31/1, giá lúa mì tại Mỹ giảm gần 2%, sau khi tăng trong phiên trước đó, đồng thời giá ngô và đậu tương cũng giảm. Theo đó, trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 10-34 US cent xuống 5,94-3/4 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 1 US cent xuống 4,46-3/4 USD/bushel; đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 3/4 US cent xuống 12,18 USD/bushel.
Tính chung trong tháng 1, giá lúa mì tăng trong khi đậu tương và ngô giảm.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE kết thúc phiên cuối tháng tăng 0,22 US cent, tương đương 0,9%, lên 24,13 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London tăng 0,5% lên 666,3 USD/tấn. Tính chung trong tháng 1, giá đường giảm mạnh, khoảng 20%.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London phiên 31/1 giảm 31 USD, tương đương 0,9%, xuống 3.305 USD/tấn, sau khi đạt mức cao 3.379 USD/tấn trong phiên trước đó. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 1,9405 USD/lb. Tính chung trong tháng 1, giá giảm khoảng 4%.
Cao su nằm trong số ít các loại nông sản tăng giá trong tháng 1, với mức tăng khoảng 10%.
Phiên 31/1, cao su giao dịch trên thị trường Nhật Bản tăng trở lại sau 3 phiên giảm trước đó do tâm lý lạc quan về việc Mỹ giảm thuế nhập khẩu đối với lốp xe Thái Lan và số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh, làm lu mờ lo ngại hoạt động sản xuất suy yếu và nhu cầu xe điện giảm.
Theo báo cáo của Cục Đăng ký Liên bang hôm thứ Hai, Bộ Thương mại nước này đã hạ thuế chống bán phá giá đối với lốp xe khách và xe tải nhẹ từ Thái Lan, mang lại lợi ích cho khoảng 10 nhà sản xuất lốp xe có trụ sở tại Thái Lan.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn Osaka tăng 3,7 JPY, tương đương 1,32%, lên 285 JPY (1,93 USD)/kg. Tính chung trong tháng 1/2024, giá cao su tăng 11,11% - tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 2/2021. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 40 CNY xuống 13.515 CNY (1.883,21 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Singapore không thay đổi ở mức 152,1 US cent/kg.
Cập nhật giá hàng hóa
Mặt hàng
|
ĐVT
|
31/1/24
|
So với 1 tuần trước
|
So với 1 tháng trước
|
So với 1 năm trước
|
CRB index
|
Điểm
|
301,40
|
-0,94%
|
-3,17%
|
0,02%
|
LME index
|
Điểm
|
3762,10
|
0,67%
|
3,26%
|
-5,57%
|
WTI
|
USD/thùng
|
71,650
|
-2,60%
|
-5,79%
|
-10,94%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,040
|
-2,23%
|
-4,39%
|
-10,05%
|
Khí gas
|
USD/MMBtu
|
2,4934
|
-1,29%
|
-10,08%
|
-31,52%
|
Xăng
|
USD/gallon
|
2,1174
|
-0,34%
|
-0,39%
|
-14,92%
|
Dầu đốt
|
USD/gallon
|
2,5289
|
-4,06%
|
-6,90%
|
-20,45%
|
Than
|
USD/tấn
|
146,40
|
0,62%
|
10,78%
|
-63,78%
|
Vàng
|
USD/ounce
|
2062,59
|
0,47%
|
1,32%
|
13,06%
|
Bạc
|
USD/ounce
|
23,760
|
-1,69%
|
-5,90%
|
-0,86%
|
Đồng
|
USD/lb
|
3,8810
|
-0,37%
|
1,36%
|
1,86%
|
Quặng sắt
|
USD/tấn
|
142,50
|
1,06%
|
7,55%
|
21,28%
|
Thép thanh vằn
|
CNY/tấn
|
3928,00
|
-0,23%
|
1,08%
|
-2,26%
|
Thép cuộn cán nóng
|
USD/tấn
|
1093,00
|
-2,93%
|
-1,62%
|
46,91%
|
Nhôm
|
USD/tấn
|
2384,00
|
2,49%
|
8,71%
|
0,25%
|
Thiếc
|
USD/tấn
|
25415
|
2,21%
|
9,33%
|
2,45%
|
Kẽm
|
USD/tấn
|
2658,00
|
2,19%
|
7,37%
|
-10,58%
|
Nickel
|
USD/tấn
|
16375
|
0,59%
|
-0,38%
|
-45,21%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1293,50
|
-0,48%
|
-3,67%
|
-15,12%
|
Lúa mì
|
US cent/bushel
|
628,00
|
1,91%
|
5,02%
|
-20,71%
|
Dầu cọ
|
Ringgit/tấn
|
3721,00
|
-0,45%
|
-4,47%
|
-10,85%
|
Sữa
|
USD/cwt
|
16,10
|
0,06%
|
0,00%
|
-21,35%
|
Cao su
|
JPY/kg
|
156,10
|
5,83%
|
8,93%
|
19,89%
|
Càphê
|
US cent/lb
|
188,30
|
-2,33%
|
-3,44%
|
12,55%
|
Đường
|
US cent/lb
|
20,58
|
-0,19%
|
-20,97%
|
2,69%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,00
|
1,55%
|
2,02%
|
-2,84%
|
Chè
|
USD/kg
|
3,12
|
0,00%
|
-7,42%
|
10,25%
|
Cacao
|
USD/tấn
|
4196,00
|
-2,67%
|
-5,88%
|
61,38%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
470,7898
|
-1,97%
|
-2,88%
|
-29,79%
|
Nguồn:VITIC/Vinanet (Theo Reuters, Bloomberg)