Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 1%, sau khi Trung Quốc cho biết sẽ hành động để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế tại nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ ngừng tăng lãi suất sớm và dự báo sản lượng dầu thô của Mỹ giảm.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent tăng 1,13 USD, tương đương 1,4%, lên 79,63 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,6 USD, tương đương 2,2%, lên 75,75 USD/thùng. Chênh lệch giữa 2 loại dầu chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 5/2023.
Tại Mỹ, một số tin tức kinh tế trong khoảng một tuần qua, bao gồm một báo cáo hôm thứ Ba cho thấy doanh số bán lẻ tăng ít hơn dự kiến trong tháng 6, đã thúc đẩy kỳ vọng Fed sẽ ngừng tăng lãi suất sau tháng 7 này. Dự báo trong kỳ họp 25-26 tháng 7 lãi suất sẽ được điều chỉnh tăng thêm 25 điểm cơ bản.
Các nhà phân tích của ngân hàng ING cho biết: “Với lĩnh vực sản xuất đang suy yếu và lạm phát có dấu hiệu chậm lại đáng khích lệ, đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang vào tháng 7 nhìn chung được dự đoán có thể là lần cuối cùng”.
Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí vay và có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu. Trong khi đó, nhà hoạch định kinh tế hàng đầu của Trung Quốc cam kết sẽ đưa ra các chính sách để “khôi phục và mở rộng” tiêu thụ ngay lập tức, sau khi công bố số liệu tổng sản phẩm quốc nội giảm vào đầu tuần.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc công ty phân tích và dữ liệu OANDA cho biết các thương nhân năng lượng dự kiến “thị trường dầu sẽ vẫn thắt chặt, khi xuất khẩu của Nga giảm và Trung Quốc chuẩn bị cung cấp nhiều hỗ trợ hơn cho các hộ gia đình”,
Tuy nhiên, Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Kristalina Georgieva, nói với các nhà lãnh đạo tài chính của Nhóm 20 quốc gia rằng triển vọng tăng trưởng trung hạn vẫn còn yếu.
Về nguồn cung, sản lượng dầu đá phiến của Mỹ trong tháng 8/2023 dự đoán sẽ giảm lần đầu tiên kể từ tháng 12/2022, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết. Trong khi đó, các nhà phân tích dự báo tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 14/7/2023 sẽ giảm 2,4 triệu thùng.
Các nhà phân tích trong một cuộc thăm dò của Reuters dự báo dự trữ dầu thô của Mỹ sẽ giảm 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 14 tháng 7. Nếu đúng, đó sẽ là lần giảm trữ lượng dầu thô thứ tư trong 5 tuần và so với mức giảm 0,4 triệu thùng trong cùng tuần năm ngoái và mức tăng trung bình 1,9 triệu thùng trong 5 năm (2018-2022).
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng 1% lên mức cao nhất hơn 1 tháng do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, khi các nhà đầu tư đặt cược rằng các chỉ số kinh tế gần đây của Mỹ tạo cơ sở cho Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tạm ngừng tăng lãi suất.
Giá vàng giao ngay phiên này tăng 1,1% lên 1.975,49 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ cuối tháng 5/2023; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 1,2% lên 1.980,8 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD chạm gần mức thấp nhất hơn 1 năm, khiến vàng thỏi trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác. Đồng thời, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm phiên thứ 2 liên tiếp.
Jim Wyckoff, nhà phân tích thị trường cao cấp của Kitco cho biết: “Vàng chắc chắn có thể tiến tới 2.000 USD nếu dữ liệu sắp tới cho thấy Fed sẽ giảm lãi suất sau một đợt tăng nữa trong tháng này”. Các nhà giao dịch vàng cũng lấy số liệu cho thấy doanh số bán lẻ của Mỹ tăng ít hơn dự kiến trong tháng 6, mặc dù chi tiêu của người tiêu dùng có vẻ ổn định.
Giá bạc giao ngay phiên này tăng 0,6% lên 25,01 USD/ounce, bạch kim tăng 0,8% lên 982,94 USD và palladium tăng 2,5% lên 1.315,91 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khi các nhà đầu tư tiếp tục đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế chậm lại tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,3% xuống 8.468,5 USD/tấn. Trong phiên có lúc giảm 2,1% - mức giảm mạnh nhất hơn 3 tuần, sau khi tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc (GDP) trong quý 2/2023 chỉ tăng 0,8%.
Nhà phân tích Ewa Manthey của ING cho biết: “Các kim loại cơ bản đã chịu áp lực vào đầu tuần sau dữ liệu GDP quý II của Trung Quốc thấp hơn kỳ vọng, làm tăng thêm mối lo ngại về sức khỏe của nền kinh tế nước này”.
Bắc Kinh cho biết họ sẽ đưa ra các chính sách phục hồi và mở rộng tiêu dùng, thúc đẩy nhu cầu ô tô và điện tử, đồng thời tăng thu nhập hộ gia đình, nhưng điều đó cho đến nay vẫn chưa cải thiện được niềm tin của nhà đầu tư vào nhu cầu đối với kim loại từ nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
“Cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy chính phủ sẽ đưa ra các biện pháp kích thích, như hỗ trợ cơ sở hạ tầng và nhà ở, nhằm nâng cao nhu cầu kim loại đang suy giảm,” Manthey nói thêm.
Giá kẽm phiên này giảm 0,8% xuống 2.390,5 USD/tấn. Dữ liệu hàng ngày của LME cho thấy kẽm tồn kho tại các kho đã đăng ký trao đổi tăng 15% lên 80.375 tấn, mức cao nhất trong gần ba tuần. Giá nhôm giảm 2,3% xuống 2.203 USD/tấn, chì giảm 0,1% xuống 2.098 USD, thiếc tăng 1% lên 28.635 USD và niken tăng 0,5% lên 21.160 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tăng bởi kỳ vọng vào các biện pháp kích thích hơn nữa từ Trung Quốc, sau số liệu kinh tế thấp hơn so với dự kiến.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,66% lên 845 CNY (117,83 USD)/tấn, sau khi giảm trong phiên trước đó; quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore tăng 0,98% lên 113,6 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,62%, thép cuộn cán nóng tăng 0,73%, thép cuộn tăng 0,12% và thép không gỉ tăng 0,74%.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tăng 6,3% trong quý 2/2023, thấp hơn nhiều so với dự báo tăng 7,3%, Tổng cục Thống kê Quốc gia cho biết. Trong khi đó, lĩnh vực bất động sản – ngành tiêu thụ thép lớn nhất của Trung Quốc – vẫn duy trì xu hướng giảm trong quý.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ đạt mức cao nhất 1 tháng, do lo ngại về nguy cơ nguồn cung của Mỹ thắt chặt và thời tiết bất lợi ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Giá lúa mì và ngô kỳ hạn cũng tăng khi các quan chức Ukraine cho biết cơ sở hạ tầng tại cảng Odesa ở Biển Đen bị tổn thất lớn.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 17-1/4 US cent lên 13,95-1/4 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 16/6/2023; lúa mì tăng 17 US cent lên 6,7-3/4 USD/bushel; ngô tăng 28-1/2 US cent lên 5,34-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 29/6/2023.
Giá đường thô trở lại mức cao nhất trong hai tuần gần đây do lo ngại về tác động tiêu cực đến sản lượng khin hiện tượng thời tiết El Nino quay trở lại.
Đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn ICE tăng 0,6% lên 23,92 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn London tăng 0,3% lên 671,7 USD/tấn.
Ấn Độ, nước xuất khẩu đường lớn thứ hai thế giới, đã nhận được lượng mưa trung bình kể từ đầu vụ vào ngày 1 tháng 6, mặc dù lượng mưa phân bổ không đều đã tạo ra những lo ngại mới.
"Giá đường toàn cầu dự kiến sẽ tăng vào nửa cuối năm 2023", Nidhi Jain của công ty nghiên cứu và phân tích The Smart Cube có trụ sở tại Vương quốc Anh cho biết.
“Cường độ của mùa khô mà El Niño gây ra trong năm nay có thể làm giảm 10 đến 15% năng suất mía trên toàn cầu,” ông nói.
Giá cà phê arabica đang chịu áp lực khi vụ thu hoạch tại nhà sản xuất hàng đầu Brazil đang diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi, mặc dù các đại lý cho biết nông dân bắt đầu hạn chế bán do giá giảm.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE tăng 0,1% lên 1,5595 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 0,5% xuống 2.542 USD/tấn.
Các đại lý cho biết nông dân ở Brazil, nước xuất khẩu lớn thứ ba thế giới, đang bán tháo do lo ngại giá giảm thêm.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm do các thương nhân dõi theo xu hướng giảm tại thị trường Thượng Hải, trong khi nhu cầu tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – thấp hơn so với dự kiến cũng gây áp lực thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka giảm 2,9 JPY tương đương 1,4% xuống 202,3 JPY (1,46 USD)/kg, rời bỏ chuỗi tăng 2 phiên liên tiếp; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 120 CNY xuống 12.160 CNY (1.695 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn Singapore không thay đổi ở mức 129,2 US cent/kg.
Dự trữ cao su tại các kho do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giám sát đã tăng 2,2% so với thứ Sáu tuần trước, sàn giao dịch cho biết hôm thứ Sáu. Đồng yên Nhật tăng khoảng 0,2% lên 138,46 JPY. Đồng yên vững chắc làm cho các tài sản bị chi phối bởi đồng tiền này trở nên ít hợp túi tiền hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
75,51
|
-0,24
|
-0,32%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
79,48
|
-0,15
|
-0,19%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
69.420,00
|
-960,00
|
-1,36%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,62
|
-0,01
|
-0,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
269,69
|
+0,25
|
+0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
260,45
|
+0,51
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
757,50
|
+1,50
|
+0,20%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
2.018,00
|
-1,60
|
-0,08%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.834,00
|
+115,00
|
+1,32%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,23
|
-0,03
|
-0,10%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
111,70
|
+1,20
|
+1,09%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
985,86
|
-0,54
|
-0,05%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.314,25
|
-5,39
|
-0,41%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
381,70
|
-1,25
|
-0,33%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.473,00
|
-18,00
|
-0,21%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.203,50
|
-51,50
|
-2,28%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.395,00
|
-15,00
|
-0,62%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
28.540,00
|
+177,00
|
+0,62%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
546,00
|
+11,50
|
+2,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
678,00
|
+7,25
|
+1,08%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
452,00
|
+5,75
|
+1,29%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,55
|
-0,03
|
-0,19%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.398,75
|
+3,50
|
+0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
414,30
|
-1,90
|
-0,46%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
60,48
|
+0,70
|
+1,17%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
833,80
|
+0,40
|
+0,05%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.407,00
|
+48,00
|
+1,43%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
156,30
|
+0,50
|
+0,32%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,86
|
+0,06
|
+0,25%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
282,30
|
+8,40
|
+3,07%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,20
|
-0,05
|
-0,06%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
127,40
|
-1,10
|
-0,86%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)