Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 1% do các nhà đầu tư lạc quan về nhu cầu của Trung Quốc trong bối cảnh các nước sản xuất lớn tiếp tục hạn chế sản lượng và Nga có kế hoạch kiềm chế nguồn cung.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent Brent tăng 1,07 USD, tương đương 1,3%, lên 84,07 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 85 US cent, tương đương 1,1%, lên 77,19 USD/thùng.
Khối lượng giao dịch trong phiên vừa qua thấp do thị trường Mỹ nghỉ lễ Tổng thống.
Trong phiên trước đó, cả hai loại dầu đều giảm 2 USD/thùng và giảm khoảng 4% trong tuần qua sau dữ liệu cho thấy tồn trữ dầu thô và xăng của Mỹ ở mức cao.
Các nhà phân tích dự kiến nhập khẩu dầu của Trung Quốc trong năm 2023 sẽ đạt mức cao kỷ lục để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu ngày càng tăng và khi các nhà máy lọc dầu mới đi vào hoạt động.
Craig Erlam, nhà phân tích thị trường cấp cao của OANDA cho biết: “Sự lạc quan xung quanh Trung Quốc ngày nay có thể là nguyên nhân dẫn đến mức tăng mà chúng ta đang thấy đối với dầu thô.
Trung Quốc và Ấn Độ đã trở thành các khách hàng lớn mua dầu thô của Nga. Nhập khẩu vào Ấn Độ - nước nhập khẩu dầu lớn thứ 3 thế giới, tăng lên mức cao nhất 6 tháng trong tháng 1/2023. Trong khi đó, Bộ thương mại Trung Quốc đã gặp gỡ các nhà máy lọc dầu độc lập để thảo luận về các thỏa thuận của họ với Nga.
Nga có kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu thêm 500.000 thùng/ngày, tương đương khoảng 5% sản lượng, sau khi phương Tây áp giá trần đối với dầu và sản phẩm dầu của Nga.
Nga là thành viên của nhóm các nhà sản xuất OPEC+, bao gồm Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, đã thỏa thuận trong tháng 10/2022 cắt giảm mục tiêu sản lượng thêm 2 triệu bpd cho đến cuối năm 2023.
Các nhà phân tích của Goldman Sachs cho biết trong một báo cáo ngày 19/2 rằng sự thiếu hụt nguồn cung dầu trong tương lai có khả năng đẩy giá lên tới 100 USD/thùng vào cuối năm nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do đồng USD giảm nhẹ khi các nhà đầu tư chờ đợi số liệu kinh tế sắp tới của Mỹ để có manh mối về lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Thị trường đang tập trung theo dõi biên bản cuộc họp tháng 1 của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang và dữ liệu GDP của Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.845,93 USD/ounce, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 12/2022 trong phiên trước đó; vàng kỳ hạn tháng 4/2023 tăng 0,3% lên 1.855,1 USD/ounce.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Chúng tôi vẫn dự đoán giá sẽ tăng trong các quý tới, nhưng về ngắn hạn, tôi nghĩ vàng sẽ tiếp tục biến động cho đến khi dữ liệu kinh tế Mỹ cho thấy hoạt động kinh tế chậm lại”.
Theo số liệu kinh tế công bố vào tuần trước, nền kinh tế Mỹ hồi phục và thị trường lao động thắt chặt làm dấy lên suy đoán Fed sẽ giữ lãi suất ở mức cao trong thời gian dài.
Một số quan chức Fed tuần trước đã báo hiệu rằng cần phải tăng lãi suất nhiều hơn nữa để đưa lạm phát xuống mục tiêu 2% của ngân hàng trung ương.
Nhà phân tích Ole Hansen của Saxo Bank cho biết: “Sự suy yếu hơn nữa (của giá vàng) do đồng đô la tăng có thể khiến vàng rơi vào khoản giữa ngưỡng hỗ trợ 1.792 USD đến 1.776 USD và ngưỡng kháng cự 1.872 USD”.
Chỉ số đồng USD giảm nhẹ, khiến vàng được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với khách hàng mua bằng tiền tệ khác.
Các thị trường kỳ vọng lãi suất của Fed sẽ đạt mức cao nhất dưới 5,3% vào tháng 7, với các nhà phân tích nhận thấy đồng đô la đã đi đúng hướng cho đến thời điểm hiện tại. Lãi suất tăng không khuyến khích đầu tư vào vàng không mang lại lợi nhuận, mặc dù nó được coi là hàng rào chống lại giá cả tăng vọt.
Về các kim loại quý khác, giá bc giao ngay tăng 0,4% lên 21,80 USD/ounce, bạch kim tăng 1,4% lên 929,53 USD và palladium tăng 1,3% lên 1.517,87 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá tất cả các kim loại cơ bản đều tăng sau khi kết quả một cuộc khảo sát cho thấy doanh số bán nhà tại 16 thành phố của Trung Quốc đã tăng tuần thứ ba liên tiếp, với nhiều biện pháp hỗ trợ hơn nữa, và việc Bắc Kinh chấm dứt chính sách Zero Covid giúp ổn định nhu cầu.
Giá nhôm tăng do lo ngại nguồn cung sau báo cáo các nhà máy luyện kim tại Trung Quốc hạn chế sản lượng.
Kết thúc phiên, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 3,1% lên 2.461 USD/tấn, sau khi giảm 0,3% trong phiên trước đó. Tuy nhiên, kể từ ngày 26/1/2023 đến nay, giá nhôm giảm 8% do tồn trữ tăng. Tồn trữ nhôm tại London tăng 56% trong tháng 1/2023.
Sản lượng nhôm tại một trong những tỉnh sản xuất lớn của Trung Quốc – Vân Nam – sẽ giảm sau khi có lệnh cắt giảm.
Nhà phân tích Daniel Major của UBS cho biết: “Mặc dù chúng tôi dự đoán nguồn cung sẽ giảm hơn nữa trong thời gian tới, nhưng chúng tôi không cho rằng việc cắt giảm sẽ nghiêm trọng như năm 2021”.
Sản lượng nhôm của Trung Quốc trong năm ngoái tăng 4,5% so với năm trước đó lên mức cao kỷ lục, được thúc đẩy bởi công suất mới và việc nới lỏng các hạn chế về nguồn cung cấp điện.
Đồng đô la yếu đi cũng hỗ trợ giá kim loại, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng tiền của Mỹ trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Giá đồng tại London tăng 1,8% lên 9.147 USD/tấn – cao nhất hơn 2 tuần, trong khi kẽm tăng 2,5% lên 3.133 USD. Giá chì tăng 4,8% lên 2.163 đô la, mức tăng trong một ngày lớn nhất trong gần bốn tháng, niken tăng 4,6% lên 26.985 đô la và thiếc tăng 3,2% lên 26.690 đô la.
Giá quặng sắt cũng tăng do kỳ vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh.
Theo đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1% lên 894 CNY (130,35 USD)/tấn, sau khi tăng lên mức cao 898,5 CNY/tấn lúc đầu phiên giao dịch. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore tăng 0,2% lên 125,8 USD/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,5%, thép cuộn cán nóng tăng 0,5%, thép cuộn giảm 0,3% và thép không gỉ giảm 0,1%.
ANZ Research cho biết những dấu hiệu cho thấy thị trường bất động sản tại Trung Quốc ổn định đã nâng đỡ giá quặng sắt, sau khi giá nhà ở tại nước này trong tháng 1/2023 duy trì vững, sau khi giảm trong 16 tháng qua. Giá nhà ở mới của Trung Quốc trong tháng 1/2023 tăng lần đầu tiên trong 1 năm, khi chính sách zero-Covid kết thúc, các chính sách bất động sản thuận lợi và thị trường kỳ vọng các biện pháp kích thích nhiều hơn đã thúc đẩy nhu cầu.
Trên thị trường nông sản, giá đường trắng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 0,3% lên 569,9 USD/tấn do các vấn đề cây trồng hạn chế xuất khẩu từ Ấn Độ.
Ấn Độ dự kiến sẽ sản xuất ít đường hơn so với ước tính trước đây của các cơ quan trong ngành và cơ quan chính phủ, với vụ mía cần thu hoạch sớm và năng suất thấp do điều kiện thời tiết ở các vùng trồng mía chính.
"Đã có những lo ngại ngày càng tăng trong vài tuần nay rằng chính phủ sẽ không cho phép xuất khẩu thêm nữa, do lo ngại về vụ mùa trong nước," ING cho biết trong một lưu ý.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 0,9% lên 2.117 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 4 tháng (2.124 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Thị trường robusta được hỗ trợ chủ yếu bởi giá cà phê arabica tăng gần đây do lo ngại thời tiết bất lợi làm giảm triển vọng sản xuất tại Brazil và Colombia.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải, thị trường chứng khoán nội địa và giá dầu thô tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Osaka tăng 0,4 JPY tương đương 0,2% lên 222,7 JPY (1,66 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 25 CNY lên 12.565 CNY (1.832 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn Singapore tăng 1,2% lên 139,4 US cent/kg.
Dự trữ cao su tại các kho do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giám sát đã tăng 1,0% so với một tuần trước đó. Thị trường cao su đang chờ đợi những dấu hiệu về nhu cầu từ Trung Quốc sau khi nước này dỡ bỏ các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt chống COVID vào cuối năm 2022.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
77,12
|
+0,78
|
+1,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
83,55
|
-0,52
|
-0,62%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.610,00
|
+300,00
|
+0,46%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,23
|
-0,05
|
-2,15%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
244,21
|
+3,39
|
+1,41%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
274,63
|
+3,42
|
+1,26%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
799,75
|
+0,50
|
+0,06%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.850,40
|
+0,20
|
+0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
1.850,40
|
+0,20
|
+0,01%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,90
|
+0,04
|
+0,18%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
94,90
|
+0,70
|
+0,74%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
930,06
|
+0,98
|
+0,11%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.515,57
|
-0,61
|
-0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
415,70
|
+5,20
|
+1,27%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.141,50
|
+154,00
|
+1,71%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.457,50
|
+70,00
|
+2,93%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.126,00
|
+68,00
|
+2,22%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.700,00
|
+844,00
|
+3,26%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
679,25
|
+1,75
|
+0,26%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
776,25
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
348,75
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,86
|
+0,02
|
+0,11%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.531,25
|
+9,00
|
+0,59%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
479,30
|
+4,40
|
+0,93%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,66
|
-0,09
|
-0,15%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
827,50
|
+7,20
|
+0,88%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.771,00
|
+24,00
|
+0,87%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
185,75
|
+5,50
|
+3,05%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,80
|
+0,03
|
+0,15%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
233,55
|
+5,60
|
+2,46%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,50
|
-0,50
|
-0,61%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
382,10
|
-7,30
|
-1,87%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
142,90
|
+1,30
|
+0,92%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)