menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG phiên 23/5: Giá dầu, vàng và cà phê tăng

10:00 24/05/2023

Phiên giao dịch thứ Ba (23/5), giá hàng hóa biến động trái chiều.
 
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do dự đoán thị trường xăng có thể trở nên thắt chặt và cảnh báo từ Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia về khả năng OPEC+ cắt giảm sản lượng hơn nữa.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent tăng 85 US cent, tương đương 1,1%, lên 76,84 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 86 US cent, tương đương 1,2%, lên 72,91 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đều tăng 2% lúc đầu phiên giao dịch sau khi số liệu từ Viện Dầu khí Mỹ (API) cho thấy dự trữ dầu thô và xăng giảm mạnh vào tuần trước.
Nếu số liệu chính thức từ Cơ quan quản lý thông tin năng lượng Mỹ (EIA) xác nhận thông tin này, lượng xăng dự trữ của Mỹ đã giảm ba tuần liên tiếp xuống mức thấp nhất trước dịp lễ Memorial Day kể từ năm 2014.
Kỳ nghỉ Ngày Tưởng niệm, năm nay vào ngày 29 tháng 5, theo truyền thống đánh dấu sự khởi đầu của mùa du lịch cao điểm của Mỹ - mùa hè. Giá xăng kỳ hạn tương lai của Mỹ đã tăng 2% vào thứ Ba sau dữ liệu của API.
Một số nước thành viên OPEC+ sẽ bắt đầu cắt giảm sản lượng theo thỏa thuận trong tháng này. Những lo ngại về khả năng thắt chặt nguồn cung gia tăng sau khi Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia đưa ra cảnh báo với những người đầu cơ dầu.
Nhà phân tích Craig Erlam của công ty OANDA cho biết cảnh báo này có thể mang ý nghĩa rằng Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, sẽ cân nhắc cắt giảm sản lượng hơn nữa tại cuộc họp ngày 4/6.
Ông Erlam cho biết thêm giá dầu Brent cần tăng vượt 77,50 USD/thùng để báo hiệu sự thay đổi tâm lý. Ông nói: “Tất nhiên, hành động mạnh hơn lời nói và các nhà giao dịch không bị lời nói của ông ấy (Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia) làm nản lòng quá mức, mặc dù nhóm đã công bố hai đợt cắt giảm đáng kể vào năm ngoái, làm rung chuyển thị trường trong một thời gian ngắn”.
Một số người cảm thấy đà tăng của dầu bị hạn chế bởi những lo lắng về trần nợ của Mỹ. Một vòng đàm phán trần nợ khác đã kết thúc vào thứ Ba mà không có dấu hiệu tiến triển nào khi thời hạn nâng giới hạn vay 31,4 nghìn tỷ đô la của chính phủ hoặc rủi ro vỡ nợ đã đến gần hơn.
Rob Haworth, chiến lược gia đầu tư cấp cao của U.S. Bank Wealth Management cho biết: “Giá (dầu) có thể sẽ duy trì trong phạm vi giao dịch rộng từ đầu năm đến nay khi nền kinh tế tiếp tục chậm lại trong khi việc bổ sung Dự trữ dầu mỏ chiến lược và OPEC quản lý giá tương ứng với nhu cầu toàn cầu”.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phục hồi trở lại khi lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ và đồng USD giảm khỏi các mức cao, trong khi một vòng đàm phán nữa về trần nợ công của Mỹ kết thúc mà không có tiến triển.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.975,39 USD/ounce, sau khi giảm mạnh 0,8% lúc đầu phiên giao dịch, trong khi vàng kỳ hạn tháng 6/2023 giảm 0,1% xuống 1.974,5 USD/ounce.
Giá bạc phiên này giảm 0,7% xuống 23,51 USD/ounce, bạch kim giảm 1,4% xuống 1.052,42 USD và palladium giảm 2,7% xuống 1.450,14 USD.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết vàng tăng từ mức thấp nhất trong phiên trước các báo cáo về các cuộc đàm phán tiếp theo về việc nâng trần nợ.
Đại diện của Tổng thống Joe Biden và các đảng viên Cộng hòa trong quốc hội đã kết thúc một vòng đàm phán khác về trần nợ mà không có dấu hiệu tiến triển nào khi thời hạn nâng giới hạn vay của chính phủ hoặc rủi ro vỡ nợ đang đến gần.
Các chỉ số chính của Phố Wall giảm và Dollar index giảm khỏi mức cao nhất của phiên, trong khi lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm giảm từ mức cao nhất trong hai tháng. “Mối tương quan nghịch giữa lợi suất và vàng vẫn còn đó,” ông Pavilonis nói.
Vàng thỏi đã mất gần 100 USD/ounce so với mức gần cao kỷ lục đạt được vào đầu tháng này, chủ yếu do áp lực ngày càng tăng từ việc đặt cược vào lãi suất sẽ duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn.
Ole Hansen, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của ngân hàng Saxo cho biết: “Hiện tại, thị trường vẫn chưa hoàn toàn loại trừ khả năng tăng lãi suất thêm nữa”.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chi nhánh Minneapolis Neel Kashkari ngày 23/5 cho rằng lãi suất của Mỹ có thể tăng lên trên mức 6%.
Giới đầu tư đang chờ đợi biên bản cuộc họp ngày 2-3/5 của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC), cơ quan hoạch định chính sách của Fed.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất gần 6 tháng, do lo ngại suy thoái kinh tế và nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới – Trung Quốc – giảm.
Chỉ số đồng USD tăng mạnh khiến hàng hóa định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,3% xuống 8.100 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 29/11/2022.
Ole Hansen, người đứng đầu mảng chiến lược hàng hóa tại Saxo Bank, Copenhagen, cho biết: “Triển vọng ngắn hạn đã xấu đi với rủi ro suy thoái ở châu Âu và Mỹ, cũng như sự phục hồi của Trung Quốc không tập trung vào hàng hóa”.
Ông cho biết: “Chúng tôi đang giao dịch dưới mức trung bình động 200 ngày và chúng tôi đã phải vật lộn để lấy lại mức đó”. Đường trung bình động 200 ngày, hiện ở mức 8.370 USD/tấn đối với đồng giao dịch trên sàn LME, là chỉ báo chính được các nhà giao dịch sử dụng. Nếu đồng LME không vượt lên trên mức đó, nó có khả năng di chuyển xuống vùng hỗ trợ tiếp theo khoảng 7.850 USD, ông Hansen nói thêm.
Mức chiết khấu của đồng giao ngay trên sàn LME đối với hợp đồng 3 tháng đã tăng lên 70 USD/tấn, mức cao nhất trong hơn 30 năm, cho thấy nguồn cung ngắn hạn tốt. Điều đó so với mức cộng 7,25 đô la vào giữa tháng Tư.
Đồng USD mạnh cũng gây áp lực lên kim loại. USD chạm mức cao nhất trong 6 tháng so với đồng yên do kỳ vọng ngày càng tăng rằng lãi suất của Mỹ sẽ duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn, trong khi tình trạng bế tắc về trần nợ khiến tâm lý rủi ro trở nên mong manh.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME phiên này giảm 1,5% xuống 2.230 USD/tấn sau khi hơn 20.000 tấn kim loại được chuyển đến các kho của LME ở Gwangyang, Hàn Quốc. Giá niken giảm 1,7% xuống 21.050 USD/tấn, kẽm giảm 2,7% xuống mức thấp nhất trong 31 tháng là 2.365 USD, chì mất 0,4% xuống 2.078,50 USD và thiếc giảm 3,1% xuống 24.170 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần, đảo ngược xu hướng tăng ở tuần trước đó, do gia tăng lo ngại về triển vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 3% xuống 707 CNY (102,28 USD)/tấn, sau khi chạm 704 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 15/5/2023. Giá đã giảm hơn 20% kể từ mức cao đỉnh điểm trên 130 USD/tấn vào giữa tháng 3/2023, khi Trung Quốc bước vào mùa xây dựng cao điểm (mùa xuân) và sau khi nước này dỡ bỏ các hạn chế nghiêm ngặt Covid-19. Quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 2,5% xuống 99,55 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 99,3 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 12/5/2023. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,6%, thép cuộn cán nóng giảm 0,9%, thép cuộn giảm 0,5% và thép không gỉ giảm 1,4%.
Mysteel cho biết sự sụt giảm trong đầu tư bất động sản và hoạt động xây dựng mới ở Trung Quốc trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 4 báo hiệu nhu cầu thép tiếp tục yếu.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng 2,6%, hồi phục từ mức thấp nhất hơn 2 năm do lo ngại xuất khẩu của Ukraine đang bị hạn chế, mặc dù thỏa thuận xuất khẩu Biển Đen đã được gia hạn. Giá lúa mì tăng kéo giá ngô tăng theo, trong khi giá đậu tương giảm do hoạt động bán chốt lời sau đợt tăng giá mạnh nhất 8 tháng rưỡi vào thứ Hai.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 16 US cent lên 6,22-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 5,94-1/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 31/3/2021. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 6-1/2 US cent lên 5,77-1/2 USD/bushel, trong khi giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 18-3/4 US cent xuống 13,22-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,18 US cent, tương đương 0,7%, xuống 25,81 US cent/lb ; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 0,5 USD, tương đương 0,1%, lên 713,4 USD/tấn.
Thị trường đường được củng cố bởi dự báo hiện tượng thời tiết El Nino có thể dẫn đến thời tiết khô hạn hơn tại châu Á trong những tháng tới, làm giảm sản lượng tại các nước sản xuất lớn như Ấn Độ và Thái Lan.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn trên sàn ICE tăng lên mức cao nhất 15 năm trước khi đảo chiều giảm gần 3% vào cuối phiên khi thị trường chờ xem liệu vụ thu hoạch ở Brazil có giúp giảm bớt tình trạng khan hiếm nguồn cung hiện tại hay không.
Cà phê robusta tháng 7 giảm 72 USD, tương đương 2,7%, ở mức 2.557 USD/tấn, sau khi chạm mức cao nhất 15 năm là 2.675 USD ; cà phê arabica kỳ hạntháng 7 giảm 1,75 cent, tương đương 0,9%, xuống 1,8745 USD/lb.
Các đại lý cho biết nguồn cung cà phê robusta vẫn rất eo hẹp, đặc biệt là ở nhà sản xuất hàng đầu thế giới, Việt Nam, nơi còn lại rất ít cà phê từ vụ thu hoạch trước. Họ lưu ý rằng cà phê robusta vụ mới từ Brazil đang dần bắt đầu xuất hiện khi tốc độ thu hoạch tăng lên trong những tuần qua dưới thời tiết khô ráo.
Giá cao su trên thị trường Châu Á giảm do không chắc chắn về tồn trữ tại Trung Quốc khiến nhu cầu giảm.
Trên thị trường Nhật Bản, giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 12/5/2023 theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải giảm, với hợp đồng kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Osaka giảm 0,8 JPY tương đương 0,4% xuống 208,9 JPY (1,55 USD)/kg, giảm phiên thứ 2 liên tiếp ; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 165 CNY xuống 11.975 CNY (1.732,47 USD)/tấn ;cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 1% xuống 135 US cent/kg.
Hoạt động sản xuất của Nhật Bản tháng 5/2023 tăng lần đầu tiên trong vòng 7 tháng, trong khi lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng kỷ lục, song các đơn đặt hàng máy móc cốt lõi trong tháng 3 giảm – tháng giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

73,48

+1,43

+1,98%

Dầu Brent

USD/thùng

77,33

+1,34

+1,76%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

64.310,00

-480,00

-0,74%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,34

-0,06

-2,58%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

268,28

+3,39

+1,28%

Dầu đốt

US cent/gallon

237,20

+0,56

+0,24%

Dầu khí

USD/tấn

686,75

+3,75

+0,55%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.992,70

-3,00

-0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.778,00

+51,00

+0,58%

Bạc New York

USD/ounce

23,65

-0,21

-0,88%

Bạc TOCOM

JPY/g

103,50

-0,20

-0,19%

Bạch kim

USD/ounce

1.053,70

-16,72

-1,56%

Palađi

USD/ounce

1.451,90

-39,36

-2,64%

Đồng New York

US cent/lb

365,45

-3,05

-0,83%

Đồng LME

USD/tấn

8.127,50

-124,00

-1,50%

Nhôm LME

USD/tấn

2.263,50

-20,00

-0,88%

Kẽm LME

USD/tấn

2.431,50

-47,50

-1,92%

Thiếc LME

USD/tấn

24.950,00

-501,00

-1,97%

Ngô

US cent/bushel

580,00

+9,00

+1,58%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

623,75

+17,50

+2,89%

Lúa mạch

US cent/bushel

323,50

+9,00

+2,86%

Gạo thô

USD/cwt

14,84

-0,11

-0,74%

Đậu tương

US cent/bushel

1.328,50

-12,75

-0,95%

Khô đậu tương

USD/tấn

411,10

-1,10

-0,27%

Dầu đậu tương

US cent/lb

48,12

-0,65

-1,33%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

666,90

-2,50

-0,37%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.016,00

-7,00

-0,23%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

187,70

-1,50

-0,79%

Đường thô

US cent/lb

25,81

-0,18

-0,69%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

287,70

+19,50

+7,27%

Bông

US cent/lb

84,49

-0,83

-0,97%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

133,90

-1,30

-0,96%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)