Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm 5% xuống mức thấp nhất 5 tuần do lo ngại về nền kinh tế Mỹ khi các chính trị gia thảo luận về giải pháp tránh vỡ nợ và các nhà đầu tư chuẩn bị cho các đợt tăng lãi suất trong tuần này.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 3,99 USD, tương đương 5%, xuống 75,32 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 4 USD, tương đương 5,3%, xuống 71,66 USD/thùng. Đây là mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 24/3/2023 đối với cả 2 loại dầu và là phiên giảm mạnh nhất kể từ đầu tháng 1/2023.
Giá dầu và các chỉ số chính của Phố Wall đều giảm sau khi Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cho biết chính phủ có thể hết tiền trong vòng 1 tháng nữa.
Nhà Trắng cho biết Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ không đàm phán về trần nợ trong cuộc gặp với 4 nhà lãnh đạo hàng đầu của quốc hội vào ngày 9/5, nhưng ông sẽ thảo luận về việc bắt đầu "một quy trình ngân sách riêng".
Trong khi đó, cơ hội việc làm của Mỹ trong tháng 3 giảm tháng thứ 3 liên và tỉ lệ sa thải tăng lên mức cao nhất trong hơn 2 năm. Điều này cho thấy sự suy yếu trong thị trường lao động – yếu tố có thể thúc đẩy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chống lại lạm phát.
Các nhà phân tích thuộc ngân hàng Barclays cho biết: “Nền kinh tế Mỹ tiếp tục phát triển theo cách phù hợp với suy thoái kinh tế bắt đầu vào cuối năm nay”. “Lĩnh vực sản xuất đang bị thu hẹp, người tiêu dùng đang gặp khó khăn, ... Có nhiều dấu hiệu rạn nứt xuất hiện trong thị trường lao động”.
Cuối tuần này, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm hướng thị trường từ việc các ngân hàng trung ương tăng lãi suất (dự kiến) trong cuộc chiến chống lạm phát vẫn đang tiếp diễn. Nhiều lần tăng lãi suất có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và làm giảm nhu cầu năng lượng.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản vào thứ Tư.
Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng dự kiến sẽ tăng lãi suất tại cuộc họp chính sách thường kỳ vào thứ Năm.
Tamas Varga, nhà môi giới dầu mỏ của PVM, cho biết: “… hành động của các ngân hàng trung ương trong sứ mệnh kiềm chế giá tiêu dùng và sản xuất tăng cao… tất cả đều tạo ra một bóng đen nghi ngờ khá dài về triển vọng trong tương lai”.
Trong khi đó, những lo ngại về nhu cầu dầu diesel trong những tháng gần đây đã gây áp lực cho giá dầu sưởi Mỹ kỳ hạn tương lai, đẩy giá xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2021.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc công ty phân tích và dữ liệu OANDA, cho biết: “Về cơ bản, mặt hàng dầu có triển vọng suy yếu từ hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Trung Quốc và Mỹ, và nếu bối cảnh vĩ mô xấu đi thì đà bán có thể dễ dàng đẩy giá xuống dưới mức 70 USD”.
Cuối tuần qua, dữ liệu từ Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới, cho thấy hoạt động sản xuất bất ngờ giảm trong tháng Tư. Đó là lần đầu tiên chỉ số quản lý mua hàng sản xuất suy giảm kể từ tháng 12.
Về nguồn cung, sản lượng dầu của Iran vượt 3 triệu thùng/ngày (bpd). Là thành viên của OPEC và chịu lệnh trừng phạt của Mỹ kể từ năm 2018, Iran đã bơm trung bình 2,4 triệu bpd trong năm 2021. Thị trường không quan tâm đến thông tin sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ OPEC giảm trong tháng 4, do các nước bị trừng phạt - Nga và Iran - tiếp tục tìm thị trường tiêu thụ dầu thô của họ.
Trong khi đó, các kho dự trữ dầu thô của Mỹ được dự báo giảm tuần thứ ba liên tiếp, lần đầu tiên kể từ tháng 12, giảm khoảng 1,1 triệu thùng vào tuần trước, theo các nhà phân tích trong một cuộc thăm dò của Reuters.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh nhất trong vòng 1 tháng do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm bởi lo ngại mới về sự lây lan rắc rối trong lĩnh vực ngân hàng nước này, trước dự kiến Fed sẽ tăng lãi suất.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 1,5% lên 2.012,19 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 14/4/2023 (2.019,37 USD/ounce) lúc đầu phiên giao dịch; vàng kỳ hạn tháng 6/2023 tăng 1,6% lên 2.023,3 USD/ounce.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc OANDA, cho biết: “Những lo ngại về lĩnh vực ngân hàng đã quay trở lại… át đi tác động từ việc Fed có thể sẽ xem xét tăng lãi suất vào tháng 6”.
Cổ phiếu của các ngân hàng khu vực của Mỹ lao dốc, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc giảm khiến nhà đầu tư lo ngại về sức khỏe của các công ty cho vay quy mô trung bình khác.
Ủy ban Thị trường Mở Liên bang đã bắt đầu cuộc họp kéo dài hai ngày, nơi hầu hết dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản. Các thị trường định giá khoảng 15% khả năng cắt giảm lãi suất vào tháng 6, không có cơ hội tăng lãi suất nào khác. Trong khi vàng được coi là một hàng rào chống lại những bất ổn kinh tế, lãi suất tăng làm ảnh hưởng đến nhu cầu đối với tài sản có lợi tức bằng không.
Nhà phân tích Xiao Fu của Ngân hàng Trung Quốc Quốc tế cho biết vàng cũng được hỗ trợ bởi một số nhu cầu trú ẩn an toàn trước những lo ngại về sức khỏe của ngành ngân hàng và sự không chắc chắn về trần nợ của Mỹ.
Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ Hai đã triệu tập bốn nhà lãnh đạo hàng đầu của quốc hội tới Nhà Trắng vào tuần tới sau khi Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen cảnh báo chính phủ có thể thiếu tiền mặt để thanh toán các hóa đơn vào tháng Sáu.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,1% lên 25,25 USD/ounce, bạch kim 1,2% lên 1.061,99 USD, trong khi palladium giảm 1,5% xuống 1.429,47 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất 1 tuần do hoạt động của các nhà máy tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc – suy yếu và sự không chắc chắn về việc tăng lãi suất của Mỹ.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 8.520 USD/tấn, sau khi đạt 8.770,15 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 25/4/2023. Giá đồng trên sàn Comex của Mỹ giảm 1,8% xuống 3,86 USD/lb. Tuần trước, giá đồng trên sàn London chạm mức thấp nhất gần 4 tháng trước khi hồi phục.
Khối lượng giao dịch ít do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa nghỉ lễ quốc khánh.
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Sự phục hồi từ mức hỗ trợ là rất đáng kể, vì vậy nếu bạn đang giao dịch thì bạn đang cố gắng quay trở lại mức 9.000 đô la, nhưng khả năng cao là sự phục hồi đó sẽ thất bại”. "Tôi lạc quan về xu hướng tăng giá trong năm nay, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ ở trong một kịch bản giảm giá trong vài tuần tới. Một phần là do tính thời vụ, nhưng cũng là do sự gia tăng mạnh mẽ của tinh quặng đồng ở một số nơi quan trọng như Peru và DRC."
Cũng gây áp lực lên thị trường là dữ liệu cho thấy hoạt động sản xuất của Trung Quốc bất ngờ sụt giảm trong tháng 4, gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách đang tìm cách thúc đẩy nền kinh tế đang gặp khó khăn trong việc phục hồi sau COVID.
Về những kim loại khác, giá kẽm trên sàn LME giảm 1,6% xuống 2.605 USD/tấn, trong khi nhôm tăng 0,2% lên 2.361 USD, niken tăng 3,1% lên 24.980 USD, chì tăng 0,6% lên 2.160,50 USD và thiếc tăng 1,4% lên 26.075 USD.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ chạm mức thấp nhất 25 tháng do thời tiết thuận lợi cho mùa màng. Giá ngô và đậu tương cũng giảm do giảm bớt lo ngại về điều kiện thời tiết và nhu cầu xuất khẩu suy yếu.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 9 US cent xuống 6,09-1/4 USD/bushel, sau khi chạm 6,07-1/2 USD/bushel – thấp nhất kể từ tháng 4/2021. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 4-1/2 US cent xuống 5,8 USD/bushel và giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 giảm 16-3/4 US cent xuống 14,1-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô trên sàn ICE giảm từ mức cao nhất 11,5 năm, với đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,4 US cent tương đương 1,6% xuống 25,14 US cent/lb. Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 18 USD tương đương 2,5% xuống 693,6 USD/tấn.
Các nhà phân tích cho biết, mối lo ngại về nhu cầu yếu từ Trung Quốc đã kéo giá đường giảm trở lại từ mức cao nhất 11,5 năm trong tuần trước đó. Sản lượng thấp hơn dự kiến ở Ấn Độ, Thái Lan và Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy giá tăng gần đây. Nhà môi giới StoneX hôm thứ Ba đã cắt giảm dự báo thặng dư đường toàn cầu xuống chỉ còn 1,1 triệu tấn. Xuất khẩu đường của Brazil trong tháng 4 thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái, mặc dù vụ mùa lớn hơn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 15 USD tương đương 0,6% lên 2.424 USD/tấn, trong tuần trước giá cà phê đạt mức cao nhất gần 12 năm (2.489 USD/tấn); cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 1,15 US cent tương đương 0,6% lên 1,8675 USD/lb.
Xuất khẩu cà phê Brazil trong tháng 4/2023 giảm xuống 2,3 triệu bao (60 kg) so với 2,76 triệu bao cùng kỳ năm trước.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất kể từ ngày 3/4/2023, khi hoạt động giao dịch vẫn trầm lắng do Trung Quốc nghỉ lễ Quốc tế Lao động.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2023 trên sàn Osaka (OSE) tăng 0,4 JPY tương đương 0,2% lên 213,2 JPY (1,55 USD)/kg. Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore tăng 0,1% lên 135,7 US cent/kg.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nâng dự báo kinh tế châu Á, khi Trung Quốc hồi phục đã củng cố tăng trưởng, song cảnh báo rủi ro từ lạm phát kéo dài và biến động thị trường toàn cầu chịu ảnh hưởng bởi nguy cơ từ lĩnh vực ngân hàng phương Tây.
Hoạt động của các nhà máy tại Nhật Bản tháng 4/2023 giảm tháng thứ 6 liên tiếp, trong khi hoạt động sản xuất tại Trung Quốc bất ngờ giảm và Mỹ rời khỏi mức thấp nhất 3 năm. Giao dịch mặt hàng cao su thưa thớt do nhiều thị trường tài chính châu Á đóng cửa nghỉ lễ.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
74,73
|
-0,03
|
-0,04%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
78,18
|
-0,19
|
-0,24%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
64.430,00
|
+710,00
|
+1,11%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,35
|
-0,01
|
-0,34%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
253,53
|
+0,25
|
+0,10%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
235,25
|
-0,17
|
-0,07%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
682,75
|
-4,75
|
-0,69%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.995,50
|
-3,50
|
-0,18%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.539,00
|
-31,00
|
-0,36%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
25,17
|
-0,04
|
-0,17%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
106,70
|
+0,40
|
+0,38%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.085,35
|
+1,36
|
+0,13%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.499,86
|
+1,11
|
+0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
389,30
|
+0,90
|
+0,23%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.586,50
|
+34,00
|
+0,40%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.319,00
|
-8,00
|
-0,34%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.621,00
|
-24,00
|
-0,91%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.883,00
|
+129,00
|
+0,50%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
579,25
|
-2,25
|
-0,39%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
626,75
|
-2,50
|
-0,40%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
313,00
|
-1,25
|
-0,40%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,07
|
+0,02
|
+0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.407,25
|
+3,50
|
+0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
428,30
|
+0,90
|
+0,21%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
50,92
|
+0,09
|
+0,18%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
705,50
|
-3,10
|
-0,44%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.924,00
|
-26,00
|
-0,88%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
188,20
|
-3,40
|
-1,77%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
26,35
|
+0,57
|
+2,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
266,30
|
-3,55
|
-1,32%
|
Bông
|
US cent/lb
|
80,54
|
+0,14
|
+0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
353,30
|
+4,30
|
+1,23%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
136,20
|
+0,10
|
+0,07%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|
Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)