menu search
Đóng menu
Đóng

Tổng kết giá hàng hóa TG tuần tới 5/5: Giá vàng và cà phê tăng, dầu và kim loại giảm

16:00 07/05/2023

Trong tuần qua, giá hàng hóa nguyên liệu biến động khá mạnh, chịu tác động bởi việc Fed tăng lãi suất và những dữ liệu kinh tế của Mỹ, Trung Quốc cũng như khó khăn trong lĩnh vực ngân hàng Mỹ.
 
Năng lượng: Giá dầu giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Giá dầu tăng trong phiên cuối tuần, tuy nhiên tính chung cả tuần giảm tuần thứ 3 liên tiếp do giảm mạnh trong những phiên đầu tuần bởi lãi suất cơ bản tăng và lo ngại cuộc khủng hoảng ngân hàng Mỹ sẽ khiến nền kinh tế chậm lại và nhu cầu nhiên liệu giảm.
Kết thúc phiên 5/5, giá dầu Brent tăng 2,8 USD, tương đương 3,9%, lên 75,3USD/thùng; trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) WTI tăng 2,78 USD, tương đương 4,1%, lên 71,34 USD/thùng, sau 4 phiên đi xuống khiến giá chạm mức thấp nhất kể từ cuối năm 2021.
Giá dầu Brent khép lại tuần qua với mức giảm 5,3%, trong khi giá dầu WTI giảm 7,1%. Cả hai loại dầu đều giảm giá ba tuần liên tiếp lần đầu tiên kể từ tháng 11/2022.
Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch của BOK Financial cho biết: “Dầu thô đang cố gắng đảo ngược tình trạng mất giá gần đây do lãi suất cao hơn và lo ngại suy thoái kinh tế sau khi lĩnh vực ngân hàng đã xuất hiện những dấu hiệu khó khăn”.
Đối với một số nhà phân tích, các nguyên tắc cơ bản trên thị trường vật chất mạnh hơn so với thị trường tương lai.
Stephen Brennock, nhà phân tích thị trường dầu mỏ của PVM cho biết: “Thay vì các nguyên tắc cơ bản cơ bản, việc bán tháo điên cuồng trong tuần qua được thúc đẩy bởi những lo ngại về nhu cầu liên quan đến rủi ro suy thoái và căng thẳng trong lĩnh vực ngân hàng Mỹ”. "Kết quả cuối cùng là có sự mất kết nối lớn giữa số dư dầu và giá dầu."
Các nhà phân tích thuộc ngân hàng Commerzbank cho rằng những lo ngại về nhu cầu dầu bị thổi phồng và nhận định giá sẽ tăng trong những tuần tới.
Báo cáo việc làm vượt dự báo của Mỹ đã làm giảm bớt những lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế. Các nhà giao dịch nhận định Fed sẽ dừng tăng lãi suất tại cuộc họp vào tháng 6 tới.
Tuy nhiên, tại Trung Quốc, hoạt động của các nhà máy bất ngờ giảm trong tháng 4, khi số đơn hàng giảm và nhu cầu trong nước thấp.
Mặt khác, kỳ vọng về khả năng cắt giảm nguồn cung tại cuộc họp tiếp theo của nhóm các nhà sản xuất OPEC+ vào tháng 6 đã hỗ trợ một phần cho giá. Kelvin Wong, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc OANDA ở Singapore cho biết.
Số lượng giàn khoan dầu của Mỹ, một chỉ báo về sản lượng trong tương lai, đã giảm 3 giàn xuống 588 giàn trong tuần này, dữ liệu từ công ty dịch vụ dầu mỏ Baker Hughes cho thấy.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 1%
Giá vàng giảm trong phiên cuối tuần sau dữ liệu về việc làm của Mỹ cao hơn so với dự kiến, làm giảm bớt dự đoán về viẹc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên 5/5, giá vàng giao ngay giảm 1,7% xuống 2.015,33 USD/ounce, song tính chung cả tuần tăng hơn 1,3%, sau khi phiên trước đó có lúc đạt kỷ lục 2.072,49 USD/ounce, khi Fed phát tín hiệu chu kỳ tăng lãi suất có thể kết thúc. Vàng kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York giảm 1,5% xuống 2.024,8 USD/ounce.
Cũng trong phiên này, giá bạc giảm 1,8% xuống 25,60 USD/ounce, bạch kim tăng 1,7% lên 1.057,25 USD, trong khi palladium tăng 3,4% lên 1.496,96 USD.
Xu hướng tăng giá vàng đã bị hạn chế sau dữ liệu cho thấy các nhà tuyển dụng Mỹ tăng cường tuyển dụng vào tháng Tư trong khi lương cũng tăng.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Dữ liệu sẽ không khiến Fed tăng lãi suất vào tháng 6, nhưng có thể sẽ nhắc nhở những người muốn Fed cắt giảm lãi suất rằng lãi suất nên ổn định một chút sau đợt tăng vừa rồi”.
Cũng gây áp lực lên vàng, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm tăng sau dữ liệu việc làm, làm giảm sức hấp dẫn của loại trái phiếu không mang lại lợi suất như vàng thỏi.
Nhà giao dịch kim loại quý Alexander Zumpfe tại công ty công nghệ liên quan tới sản xuất kim loại Heraeus cho rằng, nếu có thêm số liệu cho thấy kinh tế Mỹ giảm tốc và lãi suất sẽ hạ trong trung và dài hạn, giá vàng có thể sẽ tăng. Ngược lại, các số liệu kinh tế tích cực sẽ gây sức ép lên kim loại quý này.
Thị trường cũng hướng sự chú ý đến tình hình lĩnh vực ngân hàng của Mỹ và vấn đề trần nợ. Nền kinh tế không chắc chắn và lãi suất giảm sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với vàng.
Những vấn đề xung quanh rắc rỗi của lĩnh vực ngân hàng Mỹ và trần nợ của Mỹ cũng như sự không chắc chắn về kinh tế và lãi suất thấp hơn thúc đẩy nhu cầu đối với vàng không có lợi suất.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng, sắt thép giảm
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần sau số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh, thúc đẩy triển vọng kinh tế trong ngắn hạn, song mức tăng bị hạn chế bởi nhu cầu tại Trung Quốc giảm và tồn trữ tăng.
Số lượng việc làm đã giúp kích hoạt sự phục hồi của thị trường chứng khoán toàn cầu và giá dầu, nhưng đồng thời cũng làm tăng mối đe dọa về lãi suất tăng trong thời gian dài hơn, theo thời gian sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
Kết thúc phiên 5/5, giá đồng trên sàn London tăng 0,9% lên 8.568,5 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá đồng giảm 0,3%. Tính đến nay giá đồng giảm 10% kể từ mức cao 9.550,5 USD/tấn trong tháng 1/2023.
Đối với những kim loại cơ bản khác, kết thúc phiên thứ Sáu, giá nhôm tăng 1,5% lên 2.320,50 USD/tấn, kẽm tăng 2,5% lên 2.688 USD, niken tăng 2,2% lên 24.530 USD, chì tăng 0,9% lên 2.120 USD và thiếc tăng 1,9% lên 26.075 USD. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá nhôm, chì và thiếc giảm.
Nhiều nhà phân tích dự đoán giá đồng sẽ tiếp tục giảm trước khi tình trạng thiếu hụt nguồn cung đẩy giá tăng trở lại.
Một yếu tố quan trọng gây áp lực đến giá đồng là sự phục hồi nhu cầu yếu hơn dự kiến ở Trung Quốc, nơi hoạt động sản xuất bị thu hẹp vào tháng 4, và lãi suất tăng nhanh ở Mỹ và các quốc gia khác đã gây ra một loạt vụ phá sản ngân hàng Mỹ.
Bjarne Schieldrop, nhà phân tích hàng hóa chính của tập đoàn ngân hàng Thụy Điển SEB, cho biết Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang "đập phanh theo cách chúng ta chưa từng thấy trước đây".
Ông nói: “Sẽ có một sự suy thoái (kinh tế) hơn nữa và giá đồng yếu đi. "Triển vọng của đồng có thể rất tươi sáng trong những năm tới nhưng có thể không phải trong nửa năm tới."
Trong khi đó, dữ liệu vào thứ Sáu cho thấy các đơn đặt hàng công nghiệp của Đức đã giảm đáng kể so với dự kiến trong tháng Ba.
Giám sát vệ tinh của các nhà máy chế biến kim loại vào thứ Sáu cho thấy rằng hoạt động luyện đồng toàn cầu đã giảm trong tháng 4 xuống mức thấp nhất trong hai năm.
Nhưng trong khi tồn kho đồng tại các kho của Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm nhẹ thì tồn kho tại các kho ngoại quan của Trung Quốc đang tăng lên và tồn kho LME có bảo hành đã tăng gấp đôi kể từ đầu tháng 4 lên 69.400 tấn, mức cao nhất trong gần 4 tháng.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tiếp tục giảm bởi lo ngại mới về cuộc khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ và lo ngại nhu cầu suy giảm kéo dài, trong bối cảnh sản lượng tại một số nhà máy sản xuất thép Trung Quốc giảm.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên giảm 0,99% xuống 697,5 CNY (100,93 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 5 tháng mới (675,5 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch; quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore giảm 1,45% xuống 98 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 5 tháng (94,2 USD/tấn) trong đầu phiên giao dịch.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,52% xuống 3.622 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 0,38% và thép không gỉ giảm 0,1%.
Các nhà phân tích thuộc ngân hàng ANZ cho biết: “Tình trạng khó khăn đang diễn ra tại các ngân hàng khu vực của Mỹ tiếp tục gây lo ngại cho thị trường”.
Trong khi đó, nhu cầu quặng sắt tiếp tục giảm với sản lượng kim loại nóng hàng ngày trong số 247 nhà máy thép Trung Quốc được khảo sát giảm 1,3% so với tuần trước xuống 2,41 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 5 tháng 5, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Các nhà phân tích của Sinosteel Futures cho biết: “Một số nhà máy đã lên kế hoạch tăng cường bảo trì thiết bị trong bối cảnh biên lợi nhuận thu hẹp, điều này sẽ tiếp tục hạn chế nhu cầu quặng sắt trong ngắn hạn”.
"Chúng tôi hy vọng hàng tồn kho (quặng sắt) tại cảng sẽ dần bước vào chu kỳ tăng sau đó."
Mysteel cho biết trong một báo cáo rằng 21 lò cao (BF) được bảo trì theo lịch trình vào tháng 5, giảm công suất 78.000 tấn/ngày và 9 lò BF sẽ tiếp tục sản xuất trong tháng, tăng công suất thêm 32.000 tấn/ngày.
Nông sản: Giá ngô, lúa mì, cà phê tăng trong tuần, đường giảm
Giá ngũ cốc và đậu tương Mỹ tăng trong phiên cuối tuần do kỳ vọng việc kéo dài thỏa thuận do Liên Hợp Quốc làm trung gian cho phép xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine an toàn sang Biển Đen trở nên mờ nhạt.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 15-1/4 US cent lên 6,6-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4/2021; ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 7-1/2 US cent lên 5,96-1/2 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 18-3/4 US cent lên 14,36-1/2 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10/2022 hồi đầu tuần.
Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 2,1%, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 25/7/2022 trong phiên ngày 3/5/2023. Giá lúa mì cũng tăng trong tuần, là tuần tăng đầu tiên trong vòng 3 tuần, lần lượt thoát khỏi mức thấp nhất trong 2 năm 9 tháng. Nga cho biết họ sẽ không gia hạn hiệp ước Biển Đen sau ngày 18 tháng 5 trừ khi danh sách các yêu cầu đối với xuất khẩu thực phẩm và phân bón của họ được đáp ứng.
Phó phát ngôn viên Liên Hợp Quốc Farhan Haq vào thứ Sáu cho biết Ukraine, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hợp Quốc đã không đạt được thỏa thuận cho phép bất kỳ tàu mới nào thực hiện xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen.
Giá đường thô trên sàn ICE tăng 3% len mức cao nhất trong nhiều năm ở phiên cuối tuần do nguồn cung trong ngắn hạn bị thắt chặt.
Kết thúc phiên này, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,8 US cent tương đương 3,1% lên 26,32 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 11,5 năm trong tuần trước đó. Tính chung cả tuần, giá đường thô giảm 2,5%. Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 17,9 USD tương đương 2,6% lên 715,7 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường trắng tăng 0,6%.
Các đại lý cho biết đợt điều chỉnh giảm giá sau khi chạm mức cao nhất hơn một thập kỷ vào tuần trước dường như đã kết thúc, với rất nhiều người quan tâm mua dưới 25 US cent. Họ kỳ vọng thị trường sẽ duy trì ổn định trong ngắn hạn do nguồn cung hạn chế ở Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu.
Sản lượng đường tại khu vực trung nam Brazil trong niên vụ tới được dự báo tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái lên 38,3 triệu tấn, gần mức cao kỷ lục, công ty tư vấn Datagro cho biết.
Tuy nhiên, các thương nhân nhận thấy những hạn chế đối với năng lực xuất khẩu của Brazil trong năm nay.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 5,1 US cent tương đương 2,8% lên 1,8805 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 3,5 tuần trong phiên trước đó. Tính chung cả tuần, giá cà phê arabica tăng 1,1%. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 59 USD tương đương 2,4% lên 2.471 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 12 năm trong tuần trước đó. Tính chung cả tuần, giá cà phê robusta tăng 3%.
Nguồn cung cà phê arabica vẫn eo hẹp do vụ thu hoạch của nhà sản xuất hàng đầu Brazil chỉ mới bắt đầu. Ngoài ra, các đại lý cho biết nông dân ở đó thấy có nhiều hạt bị rụng sau những trận mưa lớn vào tháng trước.
Tuy nhiên, một yếu tố hạn chế gia tăng là ngày càng có nhiều lo ngại về nhu cầu cà phê do những khó khăn kinh tế vĩ mô.
Nhu cầu đối với cà phê robusta ổn định do giá cà phê arabica cao trong lịch sử, trong khi nguồn cung tại nhà sản xuất hàng đầu Việt Nam vẫn khan hiếm.
Giá hàng hóa thế giới:  

ĐVT

Giá 5/5

So với 4/5

(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,33

-0,01

-0,01%

Dầu Brent

USD/thùng

75,24

-0,06

-0,08%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

62.690,00

-4.430,00

-6,60%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,19

+0,05

+2,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

238,14

+0,24

+0,10%

Dầu đốt

US cent/gallon

231,97

+0,50

+0,22%

Dầu khí

USD/tấn

674,75

+4,00

+0,60%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

2.025,10

+0,30

+0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.743,00

-22,00

-0,25%

Bạc New York

USD/ounce

25,86

-0,07

-0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

110,20

+0,10

+0,09%

Bạch kim

USD/ounce

1.062,61

+0,09

+0,01%

Palađi

USD/ounce

1.504,31

+9,00

+0,60%

Đồng New York

US cent/lb

388,85

+0,55

+0,14%

Đồng LME

USD/tấn

8.581,50

+88,00

+1,04%

Nhôm LME

USD/tấn

2.318,50

+31,50

+1,38%

Kẽm LME

USD/tấn

2.686,50

+64,00

+2,44%

Thiếc LME

USD/tấn

26.064,00

+464,00

+1,81%

Ngô

US cent/bushel

595,25

-1,25

-0,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

656,75

-3,50

-0,53%

Lúa mạch

US cent/bushel

331,50

+2,50

+0,76%

Gạo thô

USD/cwt

15,45

+0,02

+0,13%

Đậu tương

US cent/bushel

1.433,50

-3,00

-0,21%

Khô đậu tương

USD/tấn

424,50

-1,60

-0,38%

Dầu đậu tương

US cent/lb

54,09

-0,24

-0,44%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

733,00

-2,10

-0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.933,00

+29,00

+1,00%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

188,05

+5,10

+2,79%

Đường thô

US cent/lb

26,32

+0,80

+3,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

269,95

+3,20

+1,20%

Bông

US cent/lb

83,30

-0,60

-0,72%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

358,50

+5,90

+1,67%

Cao su TOCOM

JPY/kg

136,60

+0,90

+0,66%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn:Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)

Tags: hàng hóa