menu search
Đóng menu
Đóng

KINH TẾ 11 THÁNG 2025: PHỤC HỒI KIÊN CƯỜNG TRONG THỬ THÁCH, HƯỚNG TỚI TƯƠNG LẠI BỀN VỮNG

11:04 08/12/2025

Kinh tế nước ta 11 tháng 2025 phải đối mặt với thiên tai lịch sử quét qua dải miền Trung gây hậu quả nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống. Dù chịu tác động mạnh từ mưa lũ kéo dài, nền kinh tế vẫn giữ được động lực phục hồi rõ nét, đặc biệt trong thương mại quốc tế, đầu tư công, sản xuất công nghiệp và ổn định vĩ mô. Bức tranh kinh tế 11 tháng phản ánh gam sáng của nỗ lực phục hồi mạnh mẽ và gam tối của những rủi ro, đứt gãy ngắn hạn cần sớm được nhận diện và xử lý. 
 
Giữ vững ổn định vĩ mô giữa dòng chảy biến động và những thách thức nội tại
Kinh tế 11 tháng 2025 của nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu có nhiều biến động với chuỗi cung ứng quốc tế chưa hoàn toàn ổn định, giá năng lượng và nguyên vật liệu dao động khó lường, lạm phát tại nhiều nền kinh tế phát triển vẫn cao hơn mức mục tiêu, trong khi áp lực địa chính trị vẫn âm ỉ.
Trong bối cảnh bất định ấy, Việt Nam đã kiên định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và giữ niềm tin thị trường.
Trong 11 tháng 2025, nền kinh tế thể hiện khả năng phục hồi kiên cường, lạm phát bình quân được kiểm soát ở mức 3,29%; tỷ giá và lãi suất tương đối ổn định, tạo đà cho sản xuất, xuất khẩu và đầu tư phát triển.
Đây chính là "tấm khiên vững chắc" để nền kinh tế đứng vững trước những cơn sóng biến động từ bên ngoài. Ổn định vĩ mô chính là điểm tựa, bảo vệ nền kinh tế, giúp Việt Nam đứng vững trước những cơn sóng lớn của cú sốc thiên tai và biến động toàn cầu. 
Những điểm sáng của nền kinh tế
Dù phải chống chọi với thiên tai lịch sử miền Trung, sức mua suy yếu và tác động của các cú sốc đầu năm, kinh tế Việt Nam vẫn xuất hiện những điểm sáng đáng chú ý.
Mặt bằng tăng trưởng mới đang dần hình thành với chất lượng được cải thiện trong môi trường đầy biến động. Sáu tín hiệu tích cực của nền kinh tế 11 tháng qua, từ xuất khẩu phục hồi, sản xuất công nghiệp cải thiện, đầu tư công có trọng tâm, tín dụng mở rộng, đến việc hé mở các động lực của tam giác tăng trưởng mới: kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tri thức cho thấy nền kinh tế đang cố gắng giữ nhịp trong bối cảnh "nhiều lực cản".
Những điểm sáng này vì thế cần được nhìn nhận không chỉ như thành tựu, mà còn như phép thử cho khả năng chống chịu, cho độ chính xác của chính sách và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô trong bối cảnh mới.
Một là, xuất khẩu bật dậy, công nghiệp trong nước chưa theo kịp. Kim ngạch xuất khẩu 11 tháng 2025 tiếp tục tăng mạnh, đạt 430,1 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trở thành động lực quan trọng kéo nền kinh tế vượt khó. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 327,7 tỷ USD, tăng 23,1%, chiếm 76,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 102,4 tỷ USD, giảm 1,7%, chiếm 23,8%.
Khu vực công nghiệp trong nước vẫn chưa bắt kịp nhịp phát triển, khiến giá trị gia tăng và liên kết chuỗi cung ứng còn hạn chế. So với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 839,75 tỷ USD, tăng 17,35%, một số mặt hàng có kim ngạch và tốc độ tăng cao như: điện tử, máy tính và linh kiện đạt 96,917 tỷ USD, tăng 48,5%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 53,358 tỷ USD, tăng 11,6%.
Đặc biệt xuất khẩu rau quả đạt 7,759 tỷ USD, tăng 17,3%, đạt mức kim ngạch cao nhất từ trước tới nay, phá mốc 7,12 tỷ USD của cả năm 2024, củng cố vị thế nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Cùng với đó, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 10,37 tỷ USD, tăng 12,6%, vượt mốc 10,04 tỷ USD cả năm 2024. Kết quả xuất khẩu rau quả và thủy sản là bằng chứng thực tế cho thấy hai ngành này đang tận dụng tốt lợi thế từ thị trường quốc tế, khả năng mở rộng sản lượng, cải thiện chất lượng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, trở thành điểm sáng trong bối cảnh áp lực toàn cầu, đóng góp quan trọng vào cán cân thương mại và tăng trưởng chung.
Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 20,53 tỷ USD, chỉ bằng 84,2% mức xuất siêu của 11 tháng 2024. Trong đó, khu vực FDI xuất siêu 46,5 tỷ USD; khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 26,0 tỷ USD.
Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu phản ánh khả năng chống chịu đáng kể của nền kinh tế trước các cú sốc toàn cầu và sức mạnh của nền kinh tế mở, Mỹ áp dụng thuế quan đối ứng.
Điểm sáng không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở chất lượng khi các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử và linh kiện đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy, hoạt động xuất, nhập khẩu vẫn phụ thuộc khá lớn vào một số ít thị trường quốc tế và dòng vốn FDI, cảnh báo rủi ro nếu chuỗi cung ứng toàn cầu biến động mạnh.
Các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu vẫn duy trì đà tăng nhờ đơn hàng mới tăng tháng thứ ba liên tiếp, với chỉ số PMI tháng 11/2025 đạt 53,8 điểm, thị trường xuất khẩu ghi nhận những tín hiệu khả quan khi tốc độ tăng đơn hàng xuất khẩu mới đạt mức cao nhất trong 15 tháng qua.
Tuy vậy, các doanh nghiệp trong nước chưa tận dụng triệt để lợi thế này, khi nguồn lực cho công nghiệp hỗ trợ, R&D và logistics còn yếu. Nếu không sớm nâng cấp năng lực khu vực kinh tế trong nước, nền kinh tế sẽ khó tránh khỏi "bẫy gia công" và phụ thuộc quá mức vào nguồn cầu bên ngoài. 
Hai là, khu vực công nghiệp và xây dựng lấy lại vai trò là động lực tăng trưởng. Mười một tháng 2025 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn 1 điểm phần trăm của 11 tháng 2024. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6%, cùng kỳ năm 2024 tăng 9,6%.
Đặc biệt, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 11 tháng 2025 đều tăng hai con số, trên 10%. Cụ thể, sản phẩm ô tô tăng 37,4%; tivi tăng 19,0%; thép cán tăng 18,5%; quần áo mặc thường tăng 14,2%; xi măng tăng 14,1%; giày, dép da tăng 12,8%.
Ba là, đầu tư công bứt phá, hiệu quả đầu tư chưa tương xứng. Đầu tư công tiếp tục bứt phá, với nhiều dự án hạ tầng chiến lược được đẩy nhanh tiến độ, tạo hiệu ứng lan tỏa đến các ngành vật liệu xây dựng, logistics, năng lượng và dịch vụ.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 11 tháng 2025 ước đạt 736,4 nghìn tỷ đồng, bằng 72,2% kế hoạch năm và tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước đạt 23,6 tỷ USD, cao nhất của 11 tháng trong 5 năm qua, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, tốc độ giải ngân không đi cùng với hiệu quả. Nhiều dự án còn dàn trải, chưa tập trung vào các trụ cột chiến lược, cơ chế phối hợp với khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự hấp dẫn.
Trong bối cảnh thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, đầu tư công cần ưu tiên chất lượng, tính bền vững và khả năng lan tỏa, cần tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm như hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu, năng lượng xanh và hạ tầng số - những yếu tố sẽ quyết định sức sống bền vững dài hạn của nền kinh tế trong thập niên tới. Đầu tư công bứt tốc mà thiếu chất lượng sẽ chỉ tạo ra tăng trưởng ngắn hạn, nhưng không đủ để hình thành năng lực dài hạn và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bốn là, tín dụng tăng cao, chưa tạo bứt phá cho tăng trưởng kinh tế. Tín dụng toàn nền kinh tế đến cuối tháng 11 vượt mục tiêu tăng 16% so với cuối năm 2024; trong đó 69,83% tổng tín dụng chảy vào khu vực dịch vụ, 24% vào khu vực công nghiệp và xây dựng, 6,17% vào khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Cơ cấu tín dụng tạo ra sự lệch pha giữa các ngành và động lực tăng trưởng; khu vực sản xuất vật chất - nền tảng nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu chưa được tiếp sức đúng mức.
Điều này cảnh báo dòng vốn chưa thực sự chảy vào các lĩnh vực hiệu quả như công nghệ, đổi mới sáng tạo hay nâng cao năng suất. Nếu không điều chỉnh cơ chế phân bổ, tín dụng tăng cao có thể tạo ra bong bóng tài sản hoặc lãng phí nguồn lực, thay vì thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Mức tín dụng tăng cao vượt quá khả năng hấp thụ thực tế của nền kinh tế đưa đến nguy cơ lệch pha giữa tốc độ tăng vốn và hiệu quả tăng trưởng.
Vì vậy, chính sách tài chính cần hướng đến điều phối vốn thông minh, ưu tiên các ngành tạo giá trị gia tăng cao, gia tăng khả năng cạnh tranh, tạo hiệu ứng lan tỏa kinh tế thực chất. 
Năm là, đột phá trong cải cách thể chế, doanh nghiệp còn nhiều kỳ vọng. Trong bức tranh kinh tế 11 tháng 2025, lĩnh vực thể chế nổi lên như một trụ cột cải cách mang tính định hướng dài hạn.
Ngày 4/7/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg quy định rõ các tiêu chí môi trường và quá trình xác nhận các dự án đầu tư thuộc danh mục xanh.
Với quyết định này, lần đầu tiên Việt Nam có một khung pháp lý đầu tư xanh tương đối đồng bộ, đánh dấu bước chuyển quan trọng về tư duy từ phát triển bằng mọi giá sang tăng trưởng có trách nhiệm, tăng trưởng xanh, tạo hành lang minh bạch cho thị trường vốn và tín dụng xanh.
Việc ban hành khung pháp lý cho đầu tư xanh và chuẩn bị thành công lộ trình nâng hạng thị trường chứng khoán không chỉ tạo động lực mới cho dòng vốn đầu tư, mà còn khẳng định bản lĩnh thể chế Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa nền kinh tế.
Mặc dù môi trường kinh doanh tiếp tục cải thiện nhưng chưa đủ mạnh để tạo niềm tin vững chắc cho doanh nghiệp. Thủ tục hành chính vẫn phức tạp, chi phí tuân thủ chưa giảm nhiều, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp chưa đồng bộ.
Doanh nghiệp đang mong chờ một cuộc cải cách thể chế thực chất hơn, không chỉ là cải thiện thủ tục mà là nâng cấp toàn bộ hệ thống quản trị, minh bạch hóa thông tin, bảo đảm cạnh tranh công bằng và giảm rủi ro chính sách.
Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp trong nước tận dụng tốt hơn các cơ hội từ xuất khẩu, chuyển đổi số, thu hút dòng vốn FDI, đồng thời thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Sáu là, tam giác chiến lược phát triển Xanh - Số - Tri thức, động lực mới của nền kinh tế. Kinh tế xanh, kinh tế số và kinh tế tri thức đang hình thành ba trụ cột quan trọng cho tăng trưởng bền vững. Đây không chỉ là xu hướng, mà là quỹ đạo bắt buộc để nâng cao năng suất, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh quốc gia trong thập niên tới.
Kinh tế xanh giúp Việt Nam giảm rủi ro thương mại quốc tế, đáp ứng yêu cầu về phát thải và tăng trưởng bền vững. Kinh tế số là động lực mới nâng cao năng suất lao động, tạo ra chuỗi giá trị mới và cải thiện hiệu quả quản trị. Kinh tế tri thức giúp nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng sản phẩm.
Ba trụ cột này, khi được kết hợp đồng bộ với cải cách thể chế, đầu tư công chất lượng cao và thị trường trong nước vững mạnh, sẽ là bệ phóng cho nền kinh tế bứt phá trong giai đoạn 2026-2030.
Kinh tế nước ta trong 11 tháng qua vẫn giữ được sức chống chịu trước những cú sốc lớn, nhưng để chuyển từ trụ vững sang tăng trưởng bền vững cần nâng cấp chất lượng đầu tư, cải thiện sức mua trong nước, tạo dựng và phát huy ba động lực xanh - số - tri thức làm trụ cột phát triển.
Bên cạnh những điểm sáng, nền kinh tế vẫn đang đối mặt với sức mua giảm tốc, "sức khỏe" của thị trường còn mong manh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng chỉ tăng 6,8%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với 10 tháng 2025, cho thấy sức mua của thị trường trong nước còn yếu dưới tác động kép của thiên tai lịch sử miền Trung và hạn chế tài chính của các hộ gia đình.
Đây là dấu hiệu cảnh báo về "độ mỏng" của thị trường tiêu dùng trong nước - trụ cột quan trọng từng giúp nền kinh tế chống chọi với các cú sốc trước đây, chưa đủ vững để duy trì tăng trưởng.
Sự giảm tốc của tiêu dùng trong nước phản ánh thu nhập của hộ gia đình chưa phục hồi hoàn toàn, khiến người dân ưu tiên chi tiêu các mặt hàng thiết yếu, làm chậm đà tăng tiêu dùng dịch vụ, du lịch và hàng hóa cao cấp. Cùng với đó, thiên tai còn gây gián đoạn chuỗi cung ứng, làm tăng chi phí sinh hoạt, khiến sức mua tăng chậm hơn mức bình thường.
Từ góc nhìn chính sách, có thể đưa ra cảnh báo thị trường trong nước muốn trở thành trụ cột bền vững cần được nâng đỡ bằng các giải pháp tăng thu nhập thực, mở rộng an sinh xã hội, giảm chi phí sinh hoạt và cải thiện niềm tin tiêu dùng, thay vì chỉ dựa vào các chương trình khuyến mãi hoặc giảm thuế tạm thời. Nếu không kịp thời điều chỉnh, yếu tố này có thể hạn chế hiệu quả của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư công, đồng thời ảnh hưởng đến đà tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. 
Thiên tai lịch sử miền Trung và các vùng khác: Cú sốc chưa từng có, gây hệ lụy lâu dài
Trong 11 tháng 2025, thiên tai cực đoan đã trở thành thử thách chưa từng có đối với nền kinh tế. Miền Trung hứng chịu mưa lũ lịch sử, làm hàng trăm nghìn hecta lúa, hoa màu bị mất trắng, nhiều khu dân cư, khu công nghiệp, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng bị hư hại nặng, ước thiệt hại về kinh tế 14.352 tỷ đồng.
Đây là cú sốc trực tiếp không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, logistics mà còn đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình trạng tạm ngừng hoạt động, giảm năng lực sản xuất, gián đoạn chuỗi cung ứng, giảm tốc độ tăng GDP của nền kinh tế.
Chưa dừng lại ở đó, từ đầu năm 2025 đến nay, thiên tai diễn ra dồn dập, khốc liệt, trên phạm vi rộng, mang nhiều yếu tố bất thường, khiến 553.417 ha lúa, hoa màu và 376.792 ha cây trồng khác bị ngập úng, 171.763 lồng bè thủy sản bị thiệt hại... Tổng thiệt hại về kinh tế do thiên tai gây ra ước tính 99.469 tỷ đồng.
Hậu quả của thiên tai không chỉ phản ánh trực tiếp qua những con số thiệt hại mà còn làm giảm năng suất lao động, gián đoạn chuỗi cung ứng, sức mua tiêu dùng suy giảm. Tổng thiệt hại có thể kéo GDP cả nước giảm 0,5 - 0,6 điểm phần trăm.
Thiên tai liên tục đặt ra câu hỏi về khả năng chống chịu của nền kinh tế và hiệu quả đầu tư công, quản trị rủi ro, phòng chống thiên tai. Các chính sách hỗ trợ và đầu tư hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu, năng lượng xanh và cơ chế ứng phó khẩn cấp chưa đồng bộ, làm gia tăng rủi ro về tăng trưởng. 
Nền kinh tế thiết lập mặt bằng tăng trưởng mới
Nhìn lại bức tranh kinh tế 11 tháng 2025, không chỉ nhìn về những "điểm sáng". Điều cần nhấn mạnh hơn là nền kinh tế Việt Nam đang buộc phải thiết lập một mặt bằng tăng trưởng mới, bởi bối cảnh đã thay đổi, mầm mống rủi ro đang gia tăng, dư địa chính sách không còn rộng như trước.
Thiên tai lịch sử quét qua miền Trung và nhiều vùng trong cả nước, sức mua suy yếu, đầu tư tư nhân chững lại, trong khi độ mở lớn khiến nền kinh tế nhạy cảm hơn với biến động địa chính trị và chính sách kinh tế thế giới, đây là những thực tế phơi bày mức độ mong manh của nền kinh tế, điều mà chúng ta chưa nhận thức đúng mức.
Củng cố niềm tin, kiến tạo quỹ đạo tăng trưởng mới
Mười một tháng năm 2025 khép lại với bức tranh kinh tế có những điểm sáng đủ mạnh để giữ nhịp tăng trưởng, nhưng cũng có những khoảng tối cho thấy nền tảng của nền kinh tế vẫn còn mong manh trước các cú sốc, đặc biệt là thiên tai lịch sử miền Trung và biến động kinh tế toàn cầu.
Sự trỗi dậy của xuất khẩu, dòng vốn đầu tư phục hồi, công nghiệp chế biến tiếp tục là trụ cột, cùng nỗ lực duy trì ổn định vĩ mô đã tạo ra động lực quan trọng cho tăng trưởng. Nhưng đồng thời, sức mua suy yếu, tín dụng tăng nhanh nhưng chưa tương xứng với sức hấp thụ của nền kinh tế và tổn thất nặng nề do thiên tai đặt ra những giới hạn cần được nhận diện thẳng thắn.
Chính trong sự đan xen đó, yêu cầu thiết lập một mặt bằng tăng trưởng mới trở thành đòi hỏi cấp bách. Mặt bằng tăng trưởng mới không chỉ là mức tăng GDP cao hơn, mà là một cấu trúc tăng trưởng dựa vào năng suất, chất lượng, công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tri thức và sức chống chịu của toàn hệ thống. Đây là quá trình tái thiết nền tảng.
Kết quả đạt được trong 11 tháng 2025 cho thấy nội lực của nền kinh tế vẫn bền bỉ, khả năng thích ứng vẫn mạnh mẽ và dư địa cải cách vẫn rất lớn. Nếu biết chuyển hóa khó khăn thành động lực, biến thách thức thành cơ hội để hoàn thiện thể chế, tăng năng lực cạnh tranh và đầu tư có mục tiêu, Việt Nam hoàn toàn có thể bước vào chu kỳ tăng trưởng mới vững chắc hơn.
Kinh tế Việt Nam đang đứng trước thời điểm bản lề, hoặc tiếp tục đi theo quán tính cũ, hoặc mạnh dạn tạo dựng một quỹ đạo tăng trưởng chất lượng cao. Những tín hiệu tích cực của 11 tháng qua dù chưa đủ để yên tâm nhưng là nền tảng để củng cố niềm tin vào triển vọng năm 2026 và giai đoạn tới. Với quyết tâm cải cách, sự linh hoạt chính sách và tinh thần phục hồi mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng Việt Nam có thể bước sang một thập niên tăng trưởng mới, vững vàng hơn, bền bỉ hơn và có sức cạnh tranh cao hơn./.

Nguồn:VITIC tổng hợp