menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 26/12: Dầu, vàng và các kim loại khác đều tăng giá

10:37 26/12/2014

Đóng cửa phiên 25/12 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 26/12 giờ VN), giá dầu, kim loại quý và kim loại cơ bản đồng loạt tăng sau khi có một số dự báo lạc quan.

(VINANET) – Đóng cửa phiên 25/12 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 26/12 giờ VN), giá dầu, kim loại quý và kim loại cơ bản đồng loạt tăng sau khi có một số dự báo lạc quan.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi Saudi Arabia công bố ngân sách năm 2015 dự báo giá dầu sẽ ở mức 80 USD/thùng.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng tháng 2/2015 tăng 39 cent lên 56,23 USD/thùng tại thị trường New York và 56,16 USD/thùng tại thị trường Singapore.

Giá dầu trong thời gian qua giảm mạnh nhất kể từ năm 2008 trong bối cảnh dư thừa lượng cung dầu, do bùng nổ khai thác tại Mỹ lên mức cao nhất trong 3 thập kỷ qua và việc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) không cắt giảm sản lượng để giữ thị phần. Theo Bộ trưởng Dầu mỏ Iraq, nước lớn thứ 2 trong OPEC, giá dầu hợp lý nhất là ở mức 70-80 USD/thùng.

Phó Thủ tướng Nga Arkady Dvorkovich nhận định: "Nhiều khả năng, trong một vài tháng nữa giá dầu sẽ vẫn ở mức thấp và thậm chí có thể giảm xuống. Đó là sự thật. Nhưng sau một khoảng thời gian nhất định, rất có thể giá dầu sẽ tăng và đạt đến ngưỡng gần 80 USD/thùng, có thể hơn hoặc kém vài USD", ông cho biết thêm.

Theo Phó Thủ tướng Dvorkovich, trong kịch bản tồi tệ nhất Nga sẽ giảm sản lượng khai thác dầu khoảng 5-10% mỗi năm trong 2-3 năm tới.

Động thái này của Nga có thể không gây ra tác động lớn đối với tình hình thị trường thế giới, nhưng nó cũng có thể gây ra ảnh hưởng nhỏ cho thị trường, ông nói thêm.

Phó Thủ tướng Nga cho rằng nhu cầu dầu vẫn yếu do phát triển kinh tế chậm tại Nga và Liên minh châu Âu (EU), cũng như sản suất dầu thô tăng tại Mỹ và các nước thuộc Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).

Đầu tháng 12, Bộ Phát triển Kinh tế Nga giảm 2,19% dự báo xuất khẩu dầu cho năm tới, xuống còn 1,63 tỷ thùng. Xuất khẩu khí đốt năm 2015 dự kiến cũng sẽ giảm 1,8%, xuống còn gần 187 tỷ m3 trong khi tổng sản lượng sẽ ở mức 655 tỷ m3.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ thêm2 USD lên 1.177 USD, nhưng vẫn hướng đến tuần giảm thứ 2 liên tiếp do chứng khoán và đồng đôla mạnh lên.

Trên thị trường thế giới, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco sáng nay giao dịch ở ngưỡng 1.184,7 USD/ounce. Nếu so với đầu tuần,  kim loại quý này cũng giảm khoảng 13 USD/ounce.

Giá này tương đương 30,37 triệu đồng một lượng, chưa bao gồm thuế, phí. Giá trong nước đóng cửa hôm qua tại 34,97-35,13 triệu đồng.

Từ đầu tuần, giá đã mất 1,5%, do số liệu công bố vài ngày trước cho thấy Mỹ đã tăng trưởng mạnh hơn dự kiến trong quý III, với tốc độ mạnh nhất 11 năm. Các số liệu khác cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ đã giảm 4 tuần liên tiếp. Đây là dấu hiệu nền kinh tế đã vào đà khá ổn định.

USD mạnh sẽ khiến việc cầm giữ vàng đắt đỏ hơn các đồng tiền khác. Dollar Index – đo sức mạnh của đồng bạc xanh với 6 tiền tệ lớn trên thế giới từng lên đỉnh 9 năm trong tuần này. Bên cạnh đó, lãi suất tăng cũng sẽ gây áp lực lên các công cụ không trả lãi cố định, như kim loại quý.

Từ đầu tuần đến nay, thương hiệu SJC có 3 ngày tăng giá và 2 ngày giảm giá, nếu so với thời điểm mở cửa đầu tuần là 35,30 triệu đồng/lượng thì giá bán ra của vàng SJC tại Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn sáng nay giảm 150.000 đồng/lượng.

Mức giá thấp nhất của vàng SJC trong tuần này là 35,12 và cao nhất là 35,30 triệu đồng/lượng.

Trong khi đó, với mức giá giao dịch từ 31,37-31,82 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra), thương hiệu vàng Rồng Thăng Long của Bảo Tín Minh Châu sáng nay giảm 350.000 đồng/lượng so với cùng thời điểm ngày mở cửa đầu tuần.

Trên thị trường ngoại tệ, giá bán USD sáng nay tại ngân hàng BIDV và Vietinbank cùng niêm yết từ 21.370-21.405 đồng/USD (mua vào/bán ra), không đổi so với hôm qua.

Ngân hàng Vietcombank niêm yết giá mua vào là 21.360 đồng/USD và bán ra là 21.405 đồng/USD, trong khi ngân hàng Eximbank mua vào là 21.360 đồng/USD và bán ra là 21.425 đồng/USD.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
56,13
+0,29
+0,52%

Dầu Brent

USD/thùng
60,45
+0,21
+0,35%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
46.540,00
+290,00
+0,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
3,08
+0,05
+1,68%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
152,37
+1,10
+0,73%

Dầu đốt

US cent/gallon
193,38
+1,02
+0,53%

Dầu khí

USD/tấn
553,50
-0,75
-0,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
58.770,00
+490,00
+0,84%

Vàng New York

USD/ounce
1.183,20
+9,70
+0,83%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.568,00
+22,00
+0,48%

Bạc New York

USD/ounce
15,91
+0,20
+1,24%

Bạc TOCOM

JPY/g
61,20
+0,10
+0,16%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.203,94
+11,94
+1,00%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
818,57
+10,57
+1,31%

Đồng New York

US cent/lb
285,65
+0,30
+0,11%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.302,00
-28,00
-0,44%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.861,00
-8,00
-0,43%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.154,00
-7,00
-0,32%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.050,00
+655,00
+3,56%
Ngô
US cent/bushel
407,75
-6,25
-1,51%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
611,50
-24,00
-3,78%

Lúa mạch

US cent/bushel
307,75
-1,25
-0,40%

Gạo thô

USD/cwt
12,35
-0,07
-0,52%

Đậu tương

US cent/bushel
1.035,25
-10,50
-1,00%

Khô đậu tương

USD/tấn
355,70
-2,60
-0,73%

Dầu đậu tương

US cent/lb
32,05
-0,31
-0,96%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
435,80
-0,60
-0,14%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.964,00
-2,00
-0,07%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
170,15
-0,85
-0,50%

Đường thô

US cent/lb
14,76
-0,07
-0,47%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
142,75
+3,60
+2,59%
Bông
US cent/lb
61,78
-0,04
-0,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
336,10
+1,00
+0,30%

Cao su TOCOM

JPY/kg
205,10
+1,70
+0,84%

Ethanol CME

USD/gallon
1,58
+0,01
+0,38%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg