menu search
Đóng menu
Đóng

Hàng hóa TG sáng 26/8: Giá hàng hóa ít biến động

11:22 26/08/2014

Phiên giao dịch đầu tuần 25/8 (kết thúc vào rạng sáng 26/8 giờ VN), giá hàng hóa trên thị trường thế giới ít biến động trong bối cảnh USD và chứng khoán Mỹ tăng giá mạnh.

(VINANET) – Phiên giao dịch đầu tuần 25/8 (kết thúc vào rạng sáng 26/8 giờ VN), giá hàng hóa trên thị trường thế giới ít biến động trong bối cảnh USD và chứng khoán Mỹ tăng giá mạnh.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu duy trì quanh mức thấp trong bối cảnh nguồn cung dồi dào làm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực liên quan tới cuộc xung đột ở Ucraina và Libya.

Trong phiên có lúc giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm xuống 93,35 USD/thùng, và kết thúc ở mức 93,57 USD/thùng, tăng nhẹ 0,22 USD so với phiên trước đó. Trong khi đó giá dầu Brent tại London tăng nhẹ lên 102,82 USD/thùng.

Giá dầu Mỹ và toàn cầu liên tục giảm. Trên sàn Nymex, giá dầu kỳ hạn giảm 13% trong 2 tháng qua và giá dầu Brent giảm 10%.

Đối với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 9 tăng 1,13 cent (+0,4%) lên 2,7497 USD/gallon và giá dầu diesel giao tháng 9 tăng 0,9 cent (+0,3%) lên 2,8369 USD/gallon.

Khi quan hệ Nga-Ukraine trở nên căng thẳng hồi đầu năm nay, thị trường dầu thô đã tăng giá trước đồn đoán lệnh trừng phạt của phương Tây và Mỹ đối với Nga sẽ làm giảm nguồn cung từ nước xuất khẩu xăng dầu lớn thứ 2 thế giới này. Tuy nhiên, các đòn trừng phạt không gây trở ngại nguồn cung. Bên cạnh đó, nguồn cung dầu tư Libya trở lại sau khi sản lượng sụt giảm trước Mùa xuân Arab và lật đổ chính quyền của Tổng thống Moammar Gadhafi.

Barclays đã hạ dự báo giá 2014 đối với giá dầu ngọt nhẹ và dầu Brent do nhu cầu nhập khẩu yếu ớt tại Mỹ và Trung Quốc – 2 nước tiêu thụ dầu thô lớn nhất thế giới.

Trong đánh giá mới nhất đầu tháng này, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã giảm viễn cảnh về tăng trưởng nhu cầu dầu thô trên thế giới trong năm 2014 xuống 1 triệu thùng/ngày và cho biết, nguồn cung toàn cầu sẽ cao hơn mức năm ngoái 840.000 thùng/ngày. Iraq tiếp tục sản xuất trên 3 triệu thùng/ngày bất chấp bạo lực leo thang tại miền bắc nước này, trong khi Libya đưa giếng dầu Waha vào hoạt động trở lại với sản lượng 800.000 thùng/ngày.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng duy trì quanh mức thấp1.280 USD/ounce trong bối cảnh USD tăng giá và thị trường tài chính toàn cầu khởi sắc.

Giá vàng giao ngay tại New York tăng nhẹ 1,40 USD lên 1.280,30 USD/ounce.

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn COMEX giảm 1,3 USD xuống 1.278,9 USD/ounce. Giao dịch điện tử bị ngừng trong 4 giờ đồng hồ hôm 25/8 do sự cố kỹ thuật.

Tuần trước giá vàng có mức giảm hàng tuần 1,8%, cao nhất trong vòng 1 tháng qua, sau khi chạm 1.273,06 USD, mức thấp nhất 2 tháng vào hôm 21/8 trước số liệu tích cực về kinh tế Mỹ và đồn đoán việc Fed sẽ sớm tăng lãi suất.

USD tăng giá, gây áp lực lên hàng hóa định giá bằng đồng tiền này. S&P 500 phá vỡ mốc 2.000 điểm lần đầu tiên trước đồn đoán Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ có động thái thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khiến thị trường tài chính toàn cầu tăng mạnh. Hôm thứ Hai (25/8), chỉ số USD đã tăng lên mức cao nhất 11 tháng qua, trong khi euro giảm xuống thấp nhất 11 tháng

Tại cuộc họp các nhà hoạch định chính sách tại Jackson Hole, Wyoming, chủ tịch Fed Janet Yellen tuần trước đã nhấn mạnh rằng cần xem xét kỹ lưỡng việc tăng lãi suất. Lãi suất cao hơn sẽ làm giảm tính hấp dẫn của tài sản không lãi suất như vàng.

Giá vàng giảm đã thúc đẩy sức mua của các nhà chế tác trang sức ở châu Á, nhưng lượng mua vẫn hạn chế và nhà đầu tư vẫn chưa vào cuộc.

Giá chênh lệch vàng miếng tại Hong Kong đứng ở 70 cent đến 1,1 USD đối với giá giao ngay London, cao hơn so với 50 cent – 1 USD tuần trước nhờ sức mua của nhà chế tác trang sức.

Nhập khẩu vàng ròng tháng 7 của Trung Quốc từ Hong Kong giảm xuống 22,107 tấn so với 40,543 tấn trong tháng 6, mức thấp nhất trong 3 năm qua do nguồn cung dư dả và nhà chế tác trang sức chờ giá giảm thêm.

Với các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,3% xuống 19,35 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,2% xuống 1.413,5 USD/ounce trong khi giá palladium tăng 0,3% lên 886 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tại New York tăng trong phiên đầu tuần, với kỳ hạn giao tháng 9 giá tăng 1,15 cent/lb (+0,63%) lên 182,75 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá tăng 0,3 cent/lb (+0,16%) lên 187,65 cent/lb và giá kỳ hạn tháng 3/2015 giá tăng 0,25 cent/lb (+0,13%) lên 191,4 cent/lb.

Thị trường London đóng cửa nghỉ Lễ Summer Bank Holiday của Vương quốc Anh.

Thị trường cà phê physical tuần qua vẫn khá trầm lắng với phần lớn những thành phần tham gia thị trường vẫn đang đi nghỉ hè và có thể kéo dài sang tuần này cho đến sau Ngày Lao động vào thứ 2 tuần tới ở Mỹ.

Giá cà phê Việt Nam sáng nay ổn định, với cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giao dịch ở 39,4-39,5 triệu đồng/tấn, cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay vẫn duy trì ở 1.957 USD/tấn.

Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
93,57
+0,22
+0,24%
Dầu Brent
USD/thùng
102,82
+0,17
+0,17%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.760,00
+30,00
+0,04%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,94
-0,00
-0,05%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
275,62
+0,65
+0,24%
Dầu đốt
US cent/gallon
284,15
+0,46
+0,16%
Dầu khí
USD/tấn
864,50
+0,50
+0,06%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
82.480,00
-100,00
-0,12%
Vàng New York
USD/ounce
1.280,30
+1,40
+0,11%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.275,00
-8,00
-0,19%
Bạc New York
USD/ounce
19,45
+0,02
+0,10%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,90
-0,30
-0,46%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.418,31
+1,06
+0,07%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
888,25
-2,01
-0,23%
Đồng New York
US cent/lb
321,85
-1,85
-0,57%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
7.076,00
+61,00
+0,87%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
2.063,00
+4,00
+0,19%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.352,00
-10,00
-0,42%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
22.125,00
-75,00
-0,34%
Ngô
US cent/bushel
368,00
+0,50
+0,14%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
557,75
+3,25
+0,59%
Lúa mạch
US cent/bushel
352,00
+0,50
+0,14%
Gạo thô
USD/cwt
12,87
+0,02
+0,12%
Đậu tương
US cent/bushel
1.027,75
-1,50
-0,15%
Khô đậu tương
USD/tấn
342,40
-1,30
-0,38%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,98
+0,02
+0,06%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
424,50
+4,20
+1,00%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.219,00
+25,00
+0,78%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
187,65
+0,30
+0,16%
Đường thô
US cent/lb
15,36
-0,28
-1,79%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
144,50
-2,95
-2,00%
Bông
US cent/lb
66,16
+0,01
+0,02%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
350,60
-2,30
-0,65%
Cao su TOCOM
JPY/kg
198,20
-4,60
-2,27%
Ethanol CME
USD/gallon
2,01
-0,00
-0,20%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg