(VINANET) – Phiên giao dịch đầu tuần trên thị trường thế giới, 29/9 (kết thúc vào rạng sáng 30/9 giờ VN), giá dầu thô và các sản phẩm dầu tăng, cà phê cũng tăng do lo ngại thiếu cung, trong khi vàng giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô tăng do nhu cầu xăng tiếp tục tăng. Dầu thô ngọt, nhẹ kỳ hạn giao tháng 11 trên thị trường New York tăng 1,03 USD (+1,1%) lên 94,57 USD/thùng. Dầu Brent kỳ hạn tháng 10 trên sàn ICE tăng 20 cent (+0,2%) lên 97,2 USD/thùng. Giá xăng RBOB giao tháng 10 tăng 3,44 cent lên 2,6963 USD/gallon, ghi nhận mức tăng 7% trong 2 tuần qua. Giá dầu đốt nóng giao tháng 10 tăng tăng 0,36 cent (+0,1%) lên 2,7041 USD/gallon.
Chênh lệch giá giữa 2 hợp đồng (dầu Mỹ và dầu Brent) giảm xuống 2,63 USD/thùng, thấp nhất trong năm nay. Mức chênh lệch giảm cho thấy cung-cầu tại Mỹ tăng trong khi trên thế giới giảm.
Tại Mỹ, thị trường dầu mỏ được hỗ trợ bằng nhu cầu dầu thô của các nhà máy lọc dầu trong việc sản xuất xăng khi việc bảo dưỡng các nhà máy lọc dầu tại Bờ Đông và việc tạm ngừng hoạt động tại Gulf Coast đã khiến nguồn cung giảm và buộc các nhà máy lọc dầu đang hoạt động phải tăng công suất để đáp ứng nhu cầu.
Tuy nhiên, nguồn cung dồi dào tiếp tục gây áp lực lên hợp đồng dầu Brent với sản lượng dầu của Libya tăng lên 900.000 thùng/ngày vào thời điểm khi sản lượng của Iraq tiếp tục ổn định và xuất khẩu sản phẩm lọc dầu của Mỹ cũng tăng. Trong khi đó, số liệu kinh tế cho thấy nhu cầu châu Âu và Trung Quốc vẫn khá yếu ớt.
Hôm 29/9, Morgan Stanley cho biết, thành viên OPEC “có thể sẽ giảm sản lượng trước khi thị trường dầu ổn định trở lại”.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay phiên đầu tuần giảm sau khi số liệu chi tiêu dùng tháng 8 cho thấy nền kinh tế Mỹ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Tuy nhiên, mức giảm không lớn bởi các cuộc biểu tình tại Hong Kong làm gia tăng lo ngại về tăng trưởng tại Trung Quốc.
Các cuộc biểu tình quy mô lớn tại Hong Kong đã gây bất ổn tại trung tâm tài chính toàn cầu và tại Trung Quốc. Giá chứng khoán giảm. Trong khi đó, chi tiêu dùng của Mỹ trong tháng 8 tăng 0,5%, cho thấy nhiều năm duy trì lãi suất thấp cuối cùng cũng đã đẩy nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn.
Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex tăng 3,4 USD lên 1.218,8 USD/ounce. Tuy nhiên, quý III, giá vàng đã giảm 7,8%, hướng đến đợt giảm hàng quý đầu tiên trong năm nay.
Chỉ số USD ổn định sau khi đạt mức cao nhất 4 năm khi thị trường ghi nhận hàng loạt số liệu tich cực về kinh tế, đặc biệt là báo cáo việc làm phi nông nghiệp tháng 9 của Mỹ công bố hôm 26/9.
Trên thị trường cà phê, giá tăng với cả 2 loại sau báo cáo mới cho thấy thị trường sẽ thiếu hụt.
Cà phê arabica tại London kỳ hạn giao tháng 12 giá tăng 5,2 US cent/lb lên 191,25 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 5,15 US cent/lb lên 195,4 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 5,15 US cent/lb lên 197,85 US cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 5,05 US cent/lb lên 199,25 US cent/lb.
Giá robusta kỳ hạn giao tháng 9 trên thị trường London giá tăng 9 USD/tấn, tương đương +0,46% lên 1.968 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 8 USD/tấn, tương đương +0,41%, lên 1.963 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 9 USD/tấn, tương đương +0,46%, lên 1.978 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 10 USD lên 1.990 USD/tấn, và kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 10 USD lên 2.000 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay (30/9), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên tăng 200.000 đồng/tấn lên 38,1-39,3 triệu đồng/tấn, cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 8 USD từ 1.925 USD/tấn cuối tuần trước lên 1.933 USD/tấn.
Theo báo cáo ra hôm 26/9 của tổ chức phân tích F.O. Licht trụ sở tại Đức, do ảnh hưởng của đợt hạn hán hồi đầu năm, nên ước tính sản lượng cà phê của Brazil năm 205 đạt khoảng 43 triệu bao.
Báo cáo của F.O. Licht cũng ước tính sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ tháng 10/2014 – tháng 9/2015 đạt 145,5 triệu bao trong khi tiêu thụ toàn cầu đạt 152,9 triệu bao, thiếu hụt 7,4 triệu bao.
Hôm 26/6, chính phủ Việt Nam cũng đưa ra dự báo xuất khẩu cà phê trong tháng 9 đạt 1,67 triệu bao, chủ yếu là cà phê robusta, đưa xuất khẩu cà phê trong niên vụ cà phê hiện tại [tháng 10/2013 – tháng 9/2014] lên 27,33 triệu bao, tăng 15,5% so với năm trước.
Trong khi đó, xét về kim ngạch xuất khẩu cà phê, báo cáo của Bộ NN&PTNT Việt Nam cho biết, xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng đầu năm 2014 đạt 22,66 tỷ USD, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị xuất khẩu cà phê cùng kỳ dạt 2,81 tỷ USD, chiếm 12,4% và dự kiến đạt 3 tỷ USD trong năm nay.
Cà phê đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam và cao hơn gạo, chiếm 10,1% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản trong 9 tháng đầu năm 2014, chỉ thấp hơn thủy sản 24,93% và lâm sản 19,46%.
Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 26/9 giảm 850 bao xuống 2.382.129 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng giảm 2.200 bao xuống 26.465 bao.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
94,33
|
-0,24
|
-0,25%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
97,08
|
-0,12
|
-0,12%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.500,00
|
+40,00
|
+0,06%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,13
|
-0,02
|
-0,48%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
270,02
|
+0,39
|
+0,14%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
269,92
|
-0,49
|
-0,18%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
818,25
|
+0,50
|
+0,06%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
80.530,00
|
+100,00
|
+0,12%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.217,20
|
-1,60
|
-0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.279,00
|
-9,00
|
-0,21%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,51
|
-0,06
|
-0,35%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,70
|
-0,20
|
-0,32%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.308,13
|
+0,13
|
+0,01%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
788,73
|
-1,76
|
-0,22%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
305,50
|
-0,15
|
-0,05%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.742,00
|
+24,00
|
+0,36%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.963,00
|
+15,00
|
+0,77%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.290,00
|
+24,00
|
+1,06%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.400,00
|
-125,00
|
-0,61%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
325,75
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
481,25
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
333,50
|
-0,50
|
-0,15%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,83
|
+0,10
|
+0,75%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
920,25
|
-3,25
|
-0,35%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
302,40
|
-1,50
|
-0,49%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,87
|
-0,08
|
-0,24%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
398,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.311,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
191,25
|
+5,20
|
+2,79%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,80
|
+0,24
|
+1,45%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
143,95
|
+0,30
|
+0,21%
|
Bông
|
US cent/lb
|
61,42
|
-0,05
|
-0,08%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
334,30
|
+5,40
|
+1,64%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
185,60
|
+2,90
|
+1,59%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,56
|
+0,01
|
+0,64%
|
T,Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg